Vẫn còn bị loá mắt vì ánh sáng chói loà vừa ngập tràn thư viện, cha Nil liếc nhìn vào dãy giá sách gần nhất: phần giữa của dãy này trống trơn, và trơn nhẵn như lòng bàn tay. Ông bước một bước, tận cuối dãy chứa sách của thế kỷ II, người ta đã đặt hai hộp các tông lớn, những cuốn sách đang chờ được sắp xếp. Ông nhanh nhẹn luồn ra phía sau hai chiếc hộp, trong lúc đó ông nghe thấy tiếng sột soạt đặc trưng của chiếc áo tu sĩ đang mỗi lúc một gần. Một chiếc áo thầy tu bằng vải len bua, hay áo dòng của một trong các sinh viên theo chủ nghĩa nguyên vẹn? Nếu người đó đến tìm một cuốn sách trên kệ thế kỷ II thì ông thua cuộc. Nhưng có thể người đang tiến đến gần ông lúc này không đến để tìm một cuốn sách? Có thể người đó đã nhìn thấy ông vào đây và đang nuôi dưỡng những ý định khác?
Cha Nil rụt cổ sâu vào giữa hai vai.
Người đó đi qua kệ sách thế kỷ II mà không dừng lại. Núp trong vùng bóng tối ở cuối thư viện, phía sau những chiếc hộp các tông, cha Nil nín thở. Ông nghe thấy người đó bước đến bên kệ sách thế kỷ I, nơi ông đánh cắp tập bản thảo M M M hôm qua, và chợt tiếc đã không nghĩ đến việc xê dịch những cuốn sách bên cạnh để lỗ hổng đỡ phô ra.
Một khoảng thời gian chết, rồi ông nhận ra bước chân người đó lướt qua phía trước kệ sách mà ông đang núp và xa dần về phía cửa thư viện. Ông không bị phát hiện. Vị khách không mời mà đến này là ai? Có thể nhận ra bước chân của một tu sĩ trong số hàng ngàn bước chân: họ không bao giờ tiếp đất bằng gót, mà lướt bàn chân về phía trước, và bước đi như đang đi trên một chiếc đệm không khí.
Không phải là một trong số các sinh viên.
Hệ thống chiếu sáng trung tâm đột ngột tắt, và cha Nil nghe thấy tiếng cánh cửa khép lại, ổ khoá cũng tự động khớp lại. Trán xâm xấp ướt, ông chờ một lát rồi đứng dậy. Mọi thứ đều tối và im ắng.
Lúc ông đi ra sau khi đã đặt tập bản thảo M M M vào vị trí của nó, hành lang phía Bắc vắng hoe, bây giờ phải để lại chùm chìa khoá vào nơi ông đã lấy chúng. Cánh cửa văn phòng thủ thư vẫn không khoá. Cha Nil bước vào, bật đèn trần: quần áo cha Andrei vẫn vắt lên lưng ghế phô tơi. Tim đập mạnh, ông cầm chiếc quần lên và bỏ chùm chìa khoá vào trong túi. Ông biết mình sẽ không bao giờ quay lại văn phòng này nữa - không bao giờ như trước đây nữa. Lần cuối cùng, ông đưa mắt nhìn giá sách nơi cha Andrei xếp những cuốn sách ông đã nhận, trước khi đưa chúng vào thư viện.
Trên đỉnh một chồng sách, ông thấy một cuốn không dán nhãn ghi mã phân loại. Nhan đề của nó khiến ông chú ý:
NHỮNG NGỤY TÁC CUỐI CÙNG BẰNG
TIẾNG AI CẬP CỔ TỪ NAG HAMADI
Bản in có kèm lời bình
Của R.P. Andrei Sokolwski, O.S.B.
Nhà xuất bản Gabalda, Paris.
“Bản in những ngụy tác mà ông ấy đã làm từ mười năm nay, cuối cùng nó cũng được phát hành!”
Cha Nil mở cuốn sách: một công trình học thức uyên bác lỗi lạc, được xuất bản dưới sự hỗ trợ của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp CNRS. Các trang bên trái là bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ mà cha Andrei đã kiên nhẫn chép lại, và trên các trang bên phải là bản dịch của ông ấy. Công trình cuối cùng của bạn ông, một bản di chúc.
Ông đã nấn ná quá lâu trong căn phòng này, và bỗng có một quyết định đột ngột. Người ta đã ăn cắp trong phòng ông mảnh giấy cuối cùng của cha Andrei, mảnh giấy chỉ gửi cho mình ông như một lời trăng trối. Vậy thì, cuốn sách mà bạn ông đã nhận được ngay trước khi đi, trong đó ông ấy đã dồn tụ tất cả học thức và tình yêu của mình, phải thuộc về ông, cha Nil. Cuốn sách còn chưa dán nhãn, vậy là chưa được tiếp nhận trong danh mục sách của tu viện, không ai trên thế giới này có thể biết nếu ông chiếm lấy nó hôm nay. Ông muốn cuốn sách này cho riêng mình. Vượt trên cả cái chết, cuốn sách này dường như là bàn tay đưa về phía ông từ một người không bao giờ còn công bố điều gì – không bao giờ còn ngồi trong chiếc ghế phô tơi này để nghe ông nói, đầu nghiêng nghiêng, một tia ranh mãnh ánh lên trong khe mắt hẹp.
Ông cả quyết luồn bản in Các ngụy tác từ Nag Hamadi xuống dưới khăn choàng vai và bước ra hành lang.
Trong khi bước vào cầu thang, đầu óc tràn ngập nỗi cô đơn từ nay sẽ là của riêng ông, ông không nhận thấy một cái bóng áp sát tường, lùi vào trong cánh cửa lớn của Khoa học Kinh thánh. Đó là bóng một chiếc áo len bua của tu sĩ.
Trên mặt vải trơn nhẵn nổi lên chiếc thánh giá dài ngang ngực, một bàn tay phải đang bồn chồn vặn vẹo nó. Trên ngón đeo nhẫn của bàn tay là một chiếc nhẫn rất đơn giản bằng kim loại, không hề lấp lánh tia sáng nào.
Cha Nil vào phòng mình, khép cánh cửa sau lưng và dừng phắt lại. Lúc trước, khi xuống dự lễ kinh mừng, ông đã cẩn thận xếp những ghi chép trong đêm thành từng chồng nhỏ riêng biệt . Giờ đây, những tờ giấy đang nằm rải rác như sau một cơn gió.
Vào một ngày tháng Mười một này, cửa sổ phòng ông đóng kín. Đóng kín từ hôm qua.
Người ta lại đến thăm phòng ông một lần nữa. Thăm viếng và lục lọi. Lục lọi và có thể đã đánh cắp một số tờ ghi chép của ông.