Berlin, hai mươi năm sau

Berlin, hai mươi năm sau

“ Năm mươi năm hay một trăm năm nữa, Bức Tường vẫn sẽ còn đó ”

Lời Erich Honecker, tổng bí thư Đảng SED,

Cộng hoà Dân chủ Đức, 19.1.1989

Sau Bức tường

Những ngày qua, thế giới vang vọng âm hưởng lễ hội Berlin kỉ niệm lần thứ 20 ngày sụp đổ Bức tường Ô nhục. Không nhất thiết phải tán thành khía cạnh "khải hoàn vinh quang của đế chế Roma", nhưng ta không thể nào phủ nhận tính chất "giáo dục" cần thiết của sự kiện này khi thấy các thế hệ hôm nay hầu như không biết gì về lịch sử: theo một cuộc thăm dò dư luận mới đây, đa số thanh niên Đức (ra đời sau năm 1989) tưởng rằng Bức Tường Berlin là do quân đội đồng minh xây dựng, rằng Helmut Kohl là người lãnh đạo Cộng hoà Dân chủ Đức, rằng CHDCĐ là một thiên đường xã hội, có bầu cử tự do, vân vân và vân vân. Của đáng tội, cũng phải thừa nhận rằng Lịch sử là một quá trình phức tạp, ngầm chứa những mối quan hệ tương tác chằng chịt, người ta có thể dự đoán đường hướng, nhưng không ai có thể tiên tri được những đột biến (1), vì vậy mà tiến trình lịch sử trong bề sâu của nó, các phương tiện truyền thông đại chúng chỉ biết phản ánh những biến cố kịch tính ngoạn mục, không thể nào lí giải được.

Tấm màn bị xé toang

Chẳng hạn như câu chuyện Bức tường sụp đổ, hay đúng hơn, Bức tường mở toang. Lịch sử "tiểu tiết" thì ghi rằng ngày 9 tháng 11-1989, trong một cuộc họp báo, vào đúng 18g55, người phát ngôn của Ban chấp hành Trung ương đảng SED (Xã hội Thống nhất, tức là Đảng cộng sản Đông Đức), Günter Schabowski, thông báo sẽ cấp chiếu khán du lịch hay di cư "không điều kiện tiên quyết" cho bất kì công dân CHDCĐ có yêu cầu. “ Bắt đầu từ bao giờ? ”, một nhà báo hỏi ngay. Bị bất ngờ, Schabowski trả lời đại: “ Theo tôi được biết thì... ngay từ bây giờ ”. Ngay lập tức câu nói lỡ lời này đã được truyền thanh truyền hình qua tất cả các báo đài, gây ra một chấn động ngoạn mục nhất từ sau Thế chiến lần thứ nhì. Ngay từ 20g30, hàng ngàn người dân Đông Berlin đã tụ tập ở đồn biên giới Bornholmer Brűcke. Tới 23g30, viên chỉ huy đồn biên phòng sợ không kiểm soát được tình hình, đã ra lệnh mở ba-ri-e, để cho đám đông tràn qua phía Tây. Và trong đêm hôm đó, dưới sức ép của dân chúng, các đồn biên phòng theo nhau mở cổng. Thế là sau hai mươi tám năm nhục nhã, Bức Tường Berlin đã sụp đổ, trong hiện thực và trong đầu óc con người.

1989,  năm của nhân dân

15-16.01:  Công an thẳng tay đàn áp các cuộc biểu tình ở Praha kỉ niệm ngày Jan Palach tự thiêu phản đối sự can thiệp của Liên Xô năm 1968.

16.02: Phong trào dân tộc chủ nghĩa Litvia đòi quyền tự trị.

08-10.03: Quốc hội Hung thông qua dự luật cải tổ Hiến pháp, quy định chức vụ tổng thống sẽ được tuyển chọn qua phổ thông đầu phiếu.

06.04:  Kết thúc cuộc hiệp thương bàn tròn giữa chính quyền và công đoàn Đoàn Kết bắt đầu từ tháng hai. Công đoàn được thừa nhận hợp pháp. Sẽ tổ chức bầu cử tự do.

02.05: Hung mở một phần biên giới với Áo. Kẽ hở đầu tiên của bức màn sắt.

04.06: Phong trào phản kháng của sinh viên Bắc Kinh bị đàn áp đẫm máu tại quảng trường Thiên An Môn.

07.07: Hội nghị thượng đỉnh khối Warszawa họp tại Bucarest, chính thức bãi bỏ "học thuyết Brejnev" về "chủ quyền hạn chế" của các nước xã hội chủ nghĩa.

24.08: Công đoàn Đoàn Kết đại thắng trong cuộc bầu cử tự do đầu tiên ở Ba Lan. Tadeusz Masowiecki trở thành thủ tướng. Lần đầu tiên, một người không cộng sản đứng đầu nhà nước ở Đông Âu.

Tháng 8 & 9: Hàng chục ngàn người Đông Đức nghỉ hè ở Hung vượt biên sang Áo.

01.10: Gần 8 000 người Đông Đức đến Tây Đức bằng những "chuyến tàu hoả tự do" khởi hành từ Praha hay Warszawa, đi xuyên qua Đông Đức.

Tháng 10: Gorbatchev thăm Đông Berlin nhân dịp kỉ niệm 40 năm thành lập Cộng hoà Dân chủ Đức. Được đám đông chào đón như người giải phóng.

07.10: Đảng cộng sản Hung từ bỏ mọi quy chiếu về chủ nghĩa cộng sản và thiết lập chế độ đa nguyên.

03.10 - 04.11: 1,4 triệu người Đông Đức xuống đường chống chế độ, tham gia những cuộc biểu tình bắt đầu từ tháng 9 tại Leipzig.

09.11:  Mở toang Bức tường Berlin.

10.11: Todor Jivkov, lãnh đạo Bulgaria từ năm 1954, bị cách chức. Những người cộng sản chủ trương cải cách lên nắm quyền.

25.12: Vợ chồng Ceaucescu bị hành quyết ở Rumania. Những người cộng sản cũ nắm chính quyền.

29.12: Nhà li khai lão thành Vaclav Havel được bầu làm tổng thống Tiệp Khắc sau một tháng rưỡi "cách mạng nhung".

Cố nhiên, tấm ảnh lịch sử ấy chỉ cho thấy phần nổi của tảng băng sơn. Cho dù sự sụp đổ của bức tường là một biểu tượng đỉnh điểm, song nó không phải là một biến cố khởi đầu mà là chung cuộc. Nó là kết cuộc của cả một quá trình phân rã kéo dài (xem khung kèm theo). Đặc điểm của một hệ thống khép kín là chỉ cần một vết rạn nứt nhỏ cũng đủ gây ra nguy cơ chí tử là bị giảm điều áp. Thế mà từ mùa xuân 1989, bức Màn Sắt liên tiếp bị "xổ chỉ" từng mảng, nếu hình ảnh ấy có thể áp dụng cho những hàng rào kẽm gai. Trước tiên về mặt chính trị: đầu tháng ba, tại Hung, Quốc hội thông qua một dự án luật cải tổ Hiến pháp, quy định việc bầu cử tổng thống qua phổ thông đầu phiếu ; cuối tháng sáu, ở Ba Lan, cuộc tuyển cử "bán dân chủ" đã dẫn tới thất bại nặng nề của Đảng Cộng sản và đại thắng của Công đoàn Đoàn Kết ; đầu tháng bảy, hội nghị thượng đỉnh của hiệp ước Warszawa họp ở Budapest chính thức bãi bỏ "học thuyết Brejnev" về "chủ quyền hạn chế" của các nước xã hội chủ nghĩa. Về mặt vật lý: ngày 27 tháng sáu, bộ trưởng ngoại giao Hung và Áo cùng nhau cắt tượng trưng tấm lưới dây điện, khai thông biên giới giữa hai quốc gia. Đó là lời chào mời ghê gớm nhất: hàng vạn "du khách" Đông Đức tràn xuống Hung (60 000 trong vòng mấy ngày) để bước qua Áo. Chính quyền Đông Đức lại tự bêu riếu mình trong vụ mấy ngàn người Đông Đức tị nạn ở đại sứ quán Tây Đức tại Praha: nhà cầm quyền CHDCĐ đồng ý để cho những người này đi sang bang Bayern của Tây Đức với điều kiện họ đi xe lửa từ Tiệp qua lãnh thổ Đông Đức trong 8 chuyến xe lửa cửa đóng then cài. Một đòi hỏi võ đoán, nhân danh "chủ quyền quốc gia", rốt cuộc đã trở thành... gậy ông đập lưng ông: dọc theo tuyến đường xe lửa, dân chúng Đông Đức tràn vào các nhà ga (mua vé vào cửa đàng hoàng – kỉ luật Đức mà!) để chào đón các "chuyến xe lửa tự do". Trong không khí mạt triều đó, chính quyền Đông Đức lẽ ra còn có thể cứu vãn được tình thế nếu họ biết nhanh chóng phản ứng theo chiều hướng thích hợp, nghĩa là chấp nhận cho người dân giả tảng đi "nghỉ hè" ở Hung, để Bức Tường vẫn còn nguyên – như cựu ngoại trưởng Pháp Hubert Védrine đã mỉa mai gợi ý. Song, tới đầu mùa thu, đã quá muộn rồi. Ngày 6-7 tháng mười, khi Mikhail Gorbatchev đến Berlin dự kỉ niệm 40 năm chế độ Cộng hoà Dân chủ Đức, được đám đông chào mừng, hô vang "Tự do!", "Gorbi, hãy ở đây với chúng tôi!", ông ta đã hôn Honecker một "cái hôn của tử thần" và nói với lãnh tụ Đông Đức câu nói trở thành bất hủ: "Ai chậm chân, người đó sẽ bị cuộc sống trừng trị". Biến cố - bản lề diễn ra vào ngày 9 tháng mười, đúng một tháng trước ngày Đổ Tường, khi các "cuộc tập hợp chiều thứ hai ở Leipzig" (dân chúng tụ tập chiều thứ hai mỗi tuần trước khuôn viên nhà thờ tin lành Thánh Nicolas, ban đầu là để phản đối sự gian lận ồ ạt trong cuộc bầu cử địa phương hồi tháng năm) đã tự phát biến thành một cuộc biểu tình tuần hành đông đảo – sự kiện chưa từng có trong lịch sử CHDCĐ. Muốn đánh giá đúng mức cái dũng của những người biểu tình, phải nhớ lại bối cảnh của thời điểm ấy: cuộc đàn áp đẫm máu ở quảng trường Thiên An Môn (ngày 4-6-1989) còn ám ảnh mọi người, chính quyền Leipzig đã huy động 8 000 binh lính và công an chống bạo loạn, còn Egon Krenz, phụ trách nội chính, đã đe doạ dùng "biện pháp Trung Quốc" để buộc người biểu tình phải "nuốt ngược nước miếng" của họ. Nhưng đoàn 70 000 người vẫn dám biểu tình – một cách hoà bình – trước trụ sở công an STASI ; không nhận được chỉ thị nào của cấp trên, các lực lượng an ninh co mình thụ động. Sự phản đối của quần chúng không chỉ thay đổi quy mô mà thay đổi cả bản chất: các băng rôn "Chúng tôi muốn đi!" đã nhường chỗ cho những băng rôn "Chúng tôi ở lại đây!", và lần đầu tiên đoàn biểu tình hô to khẩu hiệu sẽ vang dội toàn cõi Đông Đức: "Wir sind das Volk!" (Nhân dân là chúng tôi đây!), công khai chất vất tính chính đáng của chế độ cộng sản. Đối với chính quyền, đó là phút đầu của giờ kết thúc. Cũng như mấy chính quyền trước nó (ở Ba Lan và Hung) hay sau nó (Tiệp Khắc), bộ máy cầm quyền Đông Đức bị kẹt giữa hai sách lược phòng vệ – đàn áp và nhượng bộ – cả hai đều vô hiệu vì giai đoạn thoả hiệp đã qua rồi. Trong vòng vài tháng, CHDCĐ đã mất béng hơn hai trăm ngàn dân (hơn cả năm 1961 là năm bức tường được dựng nên với mục đích là... cầm máu). Ngày 18 tháng mười, Erich Honecker (cũng nên nhắc lại: công trình sư của bức tường) bị "từ chức", Egon Krenz lên thay, nhưng các cuộc biểu tình lan rộng dồn dập, vang vang khẩu hiệu "Wir sind das Volk!", tới đỉnh điểm 4 tháng mười một, gần một triệu rưởi người (tức là khoảng 8% tổng số dân) kéo nhau xuống đường. Điều gì xảy ra sau đó, mọi người đều biết: ít nhất một lần trong lịch sử của "chủ nghĩa xã hội hiện tồn", nhân dân đã thắng chính quyền, chứ không phải chính quyền đã thắng nhân dân.

Từ Berlin đến Moskva

Chỉ cần nhìn lại xâu chuỗi sự kiện 1989 đã dẫn tới sự khai phóng Trung Âu – Ba Lan, 24 tháng tám ; Hung, 23 tháng mười ; CHDCĐ, 9 tháng mười một ; Bulgary, 10 tháng mười một ; Rumania, 25 tháng mười hai ; Tiệp Khắc, 29 tháng mười hai (xem khung) – để hiểu cái biểu tượng trong lễ kỉ niệm tối 9.11 vừa qua ở cổng Brandenburg: bức tường làm bằng một ngàn quân cờ đôminô sụp đổ, đôminô này ngã xuống, xô đẩy đôminô kia... sau khi Lech Walesa xô ngã cái đầu tiên. Nhưng khi "người hùng Gdansk" vỗ ngực tự nhận mình là cha đẻ ra "năm nhân dân các nước thức tỉnh", thì ta có thể nhắc khéo rằng anh ta đã nhầm viễn cảnh. Bởi vì nếu "học thuyết Brejnev" không bị từ bỏ, thì làm sao có thể nghĩ tới "giải chư hầu hoá"? nói chi đến quá trình "giải chư hầu hoá" (gần như) nhẹ nhàng như thế? Sự xuất hiện của công đoàn Đoàn Kết đúng là sự kiện công khai đầu tiên của quá trình "phi chính đáng hoá", song perestroika mới là dòng nước ngầm mạnh mẽ đã cuốn phăng rường cột nền tảng của chủ nghĩa xã hội hiện tồn. Muốn quán triệt lịch sử thế kỉ XX, cần phải nhớ lại sự hình thành của quá trình Gorbatchev. Trong những năm 1950, khối Đông Âu dường như có khả năng bắt kịp, thậm chí vượt qua khối Tây phương, nhưng sang thập niên 1960, khoảng cách không rút ngắn mà lại tăng lên, và tới những năm 1980, những khuyết tật của hệ thống xô-viết hiện rõ mồn một, không cần phải có khoảng lùi lịch sử cũng trông thấy: xã hội tắc tị, văn hoá (chính thức) hoá thạch, kinh tế ảm đạm, công nghệ tụt hậu, sa lầy quân sự ở Afghanistan (trong tình thế đó, việc từ bỏ học thuyết Brejnev là điều bó buộc, chứ không phải là món quà tặng)... Nhiều cách lí giải – tất cả đều thích đáng – đã được đưa ra. Giải thích "bề thế" nhất (và được lòng phe Reagan nhất) là cái giá phải trả cho chiến tranh lạnh. Nhà sử học người Anh, Eric J. Hobsbawm đã tóm tắt luận điểm này như sau:

« Trong cuộc chạy đua vũ trang ồ ạt và vô cùng tốn kém, hai siêu cường đã phải 'hành hạ' và làm vênh nghiêm trọng guồng máy kinh tế, nhưng hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới đã tiêu hoá được món nợ 3 000 tỉ USD mà Hoa Kì đã phải vay mượn trong thập niên 1980 (trong khi trước đó, Hoa Kì là Nhà nước chủ nợ hàng đầu của thế giới). Trong khi đó thì chẳng có ai, bên ngoài hay bên trong hệ thống, chia sẻ bớt gánh nặng ngân sách của Liên Xô mà tỉ trọng đối với GDP lại cao hơn [có lẽ 25 % trong khi ngân sách vũ trang của Hoa Kì chiếm 7 %]. Do tác động kết hợp của chính sách và may mắn lịch sử, Hoa Kì đã chứng kiến sự diễn tiến của Nhật Bản và Cộng đồng Âu châu, vào cuối thập niên 1970, nền kinh tế của các nước này đã trội hơn nền kinh tế Mĩ tới 60 %. Ngược lại, các nước đồng minh và lệ thuộc Liên Xô không hề tự lập được (...). Về mặt công nghệ học, ưu thế của Tây phương tăng cường hầu như với nhịp độ luỹ thừa, đó là điều không thể chối cãi. Tóm lại, ngay từ đầu, chiến tranh lạnh là một cuộc đọ sức không cân đối. » 

Tuy nhiên, Hobsbawm cũng tương đối hoá luận điểm này như sau:

« Nhưng chủ nghĩa xã hội bị huỷ hoại không phải vì cuộc đụng đầu với chủ nghĩa tư bản và sự ưu việt của chủ nghĩa tư bản. Đúng hơn, nó bị huỷ hoại vì những khuyết tật ngày càng hiển nhiên làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa bị tê liệt, những tật nguyền ấy kết hợp với sự lan tràn gia tốc của một nền kinh tế toàn cầu năng động, tiến bộ và lấn át hơn hẳn (...) [Chiến tranh lạnh], nếu không xảy ra tình huống cả hai bên cùng tự sát trong một cuộc chiến tranh hạt nhân, bảo đảm cho sự sống còn của bên thua yếu. Bởi vì, gồng mình cố thủ đằng sau bức màn sắt, nền kinh tế kế hoạch hoá, dù đờ đẫn và vô hiệu đến mấy, vẫn tồn tại được: có thể nó xìu xuống một cách tiệm tiến, nhưng nó không nhất thiết sẽ sụp đổ trong một thời gian ngắn. Chính vì sự tương tác giữa nền kinh tế kiểu xô-viết và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trên toàn cầu từ thập niên 1960 trở đi đã làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành "dễ vỡ" (...). Tất cả nghịch lý của chiến tranh lạnh là ở đó: không phải sự đụng đầu mà chính là sự hoà hoãn [do Nikita Kroutchev khởi xướng] đã đánh bại Liên Xô và gây ra sự sụp đổ của nó.  » (3)

Phân tích của Hobsbawm theo đúng quan điểm "duy vật lịch sử" (ông là nhà sử học mác-xít kiên định). Có lẽ cũng nên bổ sung phân tích đó bằng một suy tư triết lí chính trị của Adam Michnik, một trong những nhà tư tưởng của công đoàn Đoàn Kết:

« Hệ thống xô-viết phải tự cải tạo để ứng phó với những thách thức của sự hiện đại hoá đặt ra cho một xã hội phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng kinh tế và tinh thần. Những năm 1930, Liên Xô có thể hiện ra như biểu tượng của tiến bộ và phát triển. Nhưng năm mươi năm sau, Liên Xô đã trở thành một xã hội lạc hậu (...). Thêm nữa là sự xung đột giữa độc tài và tự do, sự xung đột trong nội bộ các tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là con đẻ của phong trào Ánh sáng, của lý tính, của sự khoan dung, của chủ nghĩa đa nguyên. Thế mà chủ nghĩa Mác-Lê lên cầm quyền lại tự hạn chế vào một tư duy độc nhất, vào sự chuyên chính độc tài. Hệ thống xã hội chủ nghĩa xây dựng trên một nền tảng mâu thuẫn với quyền con người và quyền lao động: công đoàn bị cấm đoán, báo chí bị kiểm duyệt, biên giới bị đóng kín » (2). Khẩu hiệu « Wir sind das Volk! » cũng là tiếng gào thét của những công dân không chịu đựng một chế độ coi họ như một lũ lê dân. Hệ thống ấy phải cải tổ, nhưng ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy chỉ có ba cách khai thông: – đồng khởi như ở Hung (1956), Tiệp Khắc (1968), Ba Lan (1980) ; – cải tổ kinh tế do một chế độ độc tài "đỏ" tiến hành mà điển hình là chế độ Trung Hoa hiện hành (lẽ ra một Jaruzelski có thể chủ xướng ở Ba Lan) ; –  cải tổ kinh tế đi đôi với cải tổ dân chủ, trước hết là cải tổ Nhà nước về mặt chính trị. Con đường thứ ba chính là con đường Gorbatchev theo đuổi, không biết vì bó buộc hay vì tin tưởng. Trong tất cả các cuộc phỏng vấn sau này, nguyên tổng bí thư ĐCS Liên Xô bao giờ cũng khẳng định là ông ta làm chủ được quá trình ấy, nhưng thực tế diễn ra lại làm cho người ta liên tưởng đến câu nói của Tocqueville: đối với một chính quyền xấu, thì thời điểm nguy khốn nhất chính là lúc nó tìm cách cải tiến. Trong cuộc đàm thoại kể trên (2), Adam Michnik thú nhận mình hầu như là người duy nhất trong ban lãnh đạo công đoàn Đoàn Kết tin tưởng rằng Gorbatchev thực tâm muốn cải tổ –  nhưng Michnik không tin vào khả năng cải tổ của chế độ đó. Ngày nay, Michnik vẫn ưa kể câu chuyện tiếu lâm Nga: « Các bạn hãy tưởng tượng ra một toà nhà to, vững và đẹp, có một viên gạch lòi ra ngoài. Một anh chàng đi qua, lấy tay đẩy viên gạch vào trong, thế là cả toà nhà đổ sập xuống. Anh chàng đó là Gorbatchev. Một "anh hùng" không "chủ tâm" ». Bức tường Berlin sụp đổ được hai năm thì đến phiên Liên Xô: cùng với sự từ chức của Mikhail Gorbatchev ngày 25 tháng mười hai 1991 và sự giải thể chính thức của nước Cộng hoà liên bang xô-viết ngày hôm sau, chủ nghĩa xã hội hiện tồn đã bước ra khỏi Lịch sử, kết thúc "Thế kỉ XX ngắn", theo cách phân kì của Eric Hobsbawm (nhà sử học Anh cho rằng Thế kỉ XX bắt đầu năm 1914 -- chiều hôm trước Cách mạng tháng mười, và kết thúc năm 1991 cùng với Liên Xô).

Từ Bức Tường đến Vạn lý Trường thành

Người ta có thể phản bác, trên thế giới còn những cô đảo của chủ nghĩa xã hội hiện tồn đấy chứ, cho dù có thể đếm trên đầu ngón tay của một bàn tay: Cuba, Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam. Nói cho có vậy thôi. Cuba và Bắc Triều Tiên là những phiên bản chủ nghĩa xã hội thô bạo ("tiền đồn" của giai cấp vô sản "cha truyền con nối" hay "anh truyền em nối") đến mức chắc chắn những chế độ ấy sẽ biến mất khi các nhà độc tài khủng long ấy sang bên kia thế giới. Còn Trung Quốc – và tiểu huynh Việt Nam luôn luôn "bâu xít" theo đuôi đại ca, chậm vài ba năm – thì quả là một ca điển hình của học thuyết Darwin chính trị. Cuộc đấu tranh vì sinh tồn đã tạo ra một chế độ đổi gien "độc tài đỏ" trong đó "chủ nghĩa Mác-Lê" được dùng làm lá nho che đậy một thứ chủ nghĩa tư bản Nhà nước thi hành cái gọi là "kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường". Xét nghiệm lâm sàng con dị vật (theo nghĩa sinh học) vẫn chưa được tiến hành nghiêm chỉnh. Những định kiến có tính chất ý thức hệ, những lí giải sai lệch, đôi khi là những thông tin cố tình bị bóp méo hoặc bịa đặt (4), càng làm thêm rối rắm một hiện thực tự nó đã phức tạp. Trên thực tế, mỗi dữ kiện về Trung Quốc đều có hai mặt. Thí dụ: trong vòng hai mươi năm, GDP của Trung Quốc (năm 2006, khoảng 2600 tỉ USD) đã bước lên hàng thứ tư trên thế giới, đúng là thế, nhưng chỉ cần làm phép chia đơn giản cũng thấy bình quân đầu người là 2000 USD/năm, còn thua 1/3 thu nhập bình quân trên thế giới, và vẫn chỉ bằng 1/18 thu nhập bình quân đầu người của Pháp, nghĩa là, cho dù Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ 10%, thì mấy chục năm nữa vẫn chưa bắt kịp Pháp. Một ví dụ khác: từ khi gia nhập WTO năm 2001, Trung Quốc đã góp phần 25% vào sự tăng trưởng của GDP toàn cầu, 60% vào sự tăng trưởng mậu dịch thế giới ; song người ta có biết đâu là khối lượng xuất khẩu cung cấp phần lớn thu nhập của Trung Quốc chủ yếu là do sản xuất của các xí nghiệp ngoại quốc (hơn 500 000 công ti, vốn đầu tư gần 600 tỉ USD) lợi dụng nhân công rẻ mạt và tái xuất khẩu hầu hết sản xuất của họ? Tương tự, trong hai mươi năm, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 10% mỗi năm, sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã đưa 400 triệu người dân lên trên mức nghèo khó tuyệt đối (Ngân hàng Thế giới định mức này là 1 USD/ngày), song một tỉ người dân Trung Quốc vẫn sống trong cảnh nghèo khó tương đối, trong đó 200 triệu người sống dưới mức nói trên... Vấn đề ở đây không phải là giảm nhẹ hay chỉ trích những thành tựu của "chủ nghĩa tư bản đỏ", mà trong dịp kỉ niệm 20 năm ngày Bức Tường Berlin sụp đổ này, đặt câu hỏi về độ bền của mô hình "phát triển không dân chủ" đang diễn ra đằng sau cái Vạn lí Trường thành tư tưởng ấy. "Mô hình Trung Quốc" này có cái giá phải trả của nó. Trên nguyên tắc, nền "chuyên chính vô sản" tiếp tục được thi hành thông qua Đảng cộng sản nắm độc quyền chính trị và vận hành theo nguyên tắc "tập trung dân chủ". Mặc dầu còn giữ nguyên những quyền hạn ấy (kiểm soát chính trị, bộ máy công an), nhưng chế độ này đã biến đổi "về mặt di truyền học". Người ta đã chích vào cơ thể ấy cái "gien" tư bản chủ nghĩa, khẩu hiệu "hồng tốt hơn chuyên" đã nhường chỗ cho câu nói của Đặng Tiểu Bình "mèo màu gì cũng được, miễn là bắt được chuột". Rồi người ta lấy đi một cái gien mác-xít: tháng mười một 2002, Đại hội thứ 16 của ĐCS TQ đã thông qua nguyên tắc "ba đại diện", diễn nôm là đảng tiền phong không còn chỉ đại diện cho công nông mà cho cả "những lực lượng tiên tiến" (xin hiểu: các doanh nhân và các nhà tư bản) của xã hội. Coi như thủ tiêu đấu tranh giai cấp, mặc dầu các giai cấp vẫn còn đó. Đại để, có thể nói sơ lược ở Trung Quốc có ba lớp người: bên dưới là một tỉ người như đã nói trên ; bên trên có khoảng từ 30 đến 50 triệu "người giàu", nếu tính theo mãi lực tương đương, có thể sánh với thành phần "trung lưu" ở các nước đã phát triển (xe hơi, đi du lịch) ; ở giữa, khoảng từ 200 đến 300 triệu người, là những thành phần trung gian đang trỗi dậy, thu nhập quy ra mãi lực tương đương vào khoảng 200-500 €/tháng. Đối với các "lực lượng tiên tiến" trong những giai cấp mới này, Đảng cộng sản có "chính đáng" hay không là tuỳ xem nó có giữ đúng lời hứa "làm giàu" và có bảo đảm ổn định cho họ hay không (điều kiện không có không được để có đầu tư). "Ổn định lấn át tất cả" (Giang Trạch Dân). Lấn át, hay đúng hơn, đè bẹp cả mùa xuân Bắc Kinh.

tranh

(tranh của STEPHFF (Le Monde)

Vào giờ phút mà kí ức về Thiên An Môn bị ức chế hoàn toàn trong trí nhớ tập thể của người Trung Quốc, khán giả truyền hình nào chịu khó theo dõi lễ kỉ niệm ở cổng Brandenburg nhìn cả ngàn tấm đôminô xô nhau đổ xuống, sẽ ngạc nhiên thấy tấm đôminô cuối cũng vẫn đứng trơ trơ. Nó đứng nguyên như tấm bia đá, với những hàng chữ nho. Tựa như ban tổ chức, bất chấp tập tục ngoại giao, đã công khai đặt ra câu hỏi tại sao bức Trường thành mới chưa sụp đổ. Thật vậy, tại sao quá trình đã dẫn tới sự sụp đổ của bức tường này lại không hiệu ứng với trường thành kia? Cũng nên phân biệt hai nhân tố, sức đẩy bên trong và sức ép bên ngoài. Phải nói là từ ngày Trung Quốc đã chiếm lĩnh được vị trí cường quốc lớn của mình trên thế giới, thì về mặt đối ngoại Trung Quốc không còn kẻ thù mà chỉ có đối tác. Những đối tác hết sức quan tâm tới dự trữ nhân công vô hạn, thị trường tiềm thể khổng lồ, công trái chất cao như núi ; đại diện cao cấp của mọi đối tác (chính phủ cũng như các công ti đa quốc gia) nối đuôi nhau tới Bắc Kinh để khấu đầu: Uỷ ban Thế vận hội thì nhanh nhảu nhận cho Bắc Kinh tổ chức Thế vận hội, Yahoo! trao nộp thiên triều danh sách những người vào mạng "có vấn đề", Sarkozy thì xin lỗi về những sự cố đã xảy ra trong cuộc rước đuốc Thế Vận Hội, Obama thì lấy khăn mùi-soa phủ lên những bài diễn văn nhân quyền... Như thế là "thiên triểu ta" đi thuận chiều Lịch sử rồi còn gì. Sức ép bên ngoài thì thế. Còn lực đẩy bên trong? Do khuôn khổ bài viết, ở đây chúng tôi chỉ đề cập những khía cạnh xã hội - chính trị. Về mặt này, chúng ta thấy gì? Trước hết, bản giao ước ổn định giữa chính quyền và các giai cấp mới bị đe doạ bởi những bất bình đẳng xã hội và nạn tham nhũng.  Trong vòng hai mươi năm, Trung Quốc trở thành một trong những nước tham nhũng nhất thế giới. Theo OECD, tham nhũng có thể lên tới từ 3 tới 5% GDP của Trung Quốc. Còn chênh lệch giàu nghèo... Người ta đã biết dưới chế độ mệnh danh là xã hội chủ nghĩa ấy, khoảng cách giữa thu nhập của các thành phần xã hội to lớn tới mức nào. Đó là chưa nói tới gia tài khổng lồ của các "nam tước đỏ" gắn liền với chính quyền ở trên đỉnh, hay số phận khốn cùng của giai cấp vô sản ở dưới đáy sâu. Sự phát triển của Trung Quốc dựa vào xuất khẩu, song Trung Quốc vẫn chưa có những tập đoàn tư nhân lớn, tương tợ như các đại công ti Nhật Bản và Hàn Quốc, nên vẫn lệ thuộc vào các xí nghiệp ngoại quốc đầu tư ở Hoa Lục. Là những nhà đầu tư ngoại quốc, họ bị hấp dẫn bởi "ưu thế tương đối" của Trung Quốc (nguồn nhân công đông đảo và ít tốn kém, lại có thể tha hồ bóc lột, vì hầu như không có luật lao động thực sự). Trung Quốc bước sang thế kỉ 21, điều này cần phải được nhắc đi nhắc lại, là chủ nghĩa tư bản man dại, là chế độ chuyên chính đè lên đầu lên cổ giai cấp vô sản, khác nào nước Anh thế kỉ 19 mà Marx đã nghiên cứu trong bộ Tư bản. Thật đáng kinh ngạc khi thấy chư vị hiền nhân quân tử trên toàn thế giới phần đông đều làm như không biết (nghĩa là chấp nhận) rằng xã hội tiêu thụ của chư vị sống an nhiên trên sự bóc lột hàng trăm triệu nhân công tại "công xưởng của thế giới" (5). Những ai còn nghi ngờ điều này có thể tham khảo cuốn sách nhỏ trích dẫn trong (4), song dưới đây xin nêu ra vài ví dụ. Chủ lực của khối nhân công Trung Quốc phái sinh từ luồng di dân từ nông thôn ra thành thị (nông thôn bị bỏ quên trong mô hình phát triển Trung Quốc). Luồng di dân này cung cấp cho các "đặc khu kinh tế" những người thợ không có tay nghề – nhất là phụ nữ, tốt nhất là phụ nữ không chồng, không con – thường phải làm việc 7 ngày trên 7, đổi lấy đồng lương mạt hạng, cường độ lao động căng thẳng, hoàn toàn không có bảo hộ xã hội. Họ sống trong những lán trại sát bên công xưởng, hay là trong những "nhà ngủ" giống như những cái chuồng như người ta đã thấy trong một phóng sự truyền hình mới đây về Hương Cảng. Nhưng kiếp sống của những người công nhận này còn hơn thân phận của các "dân công", là khoảng từ 100 đến 150 triệu "lưu dân" lang bạt từ thành thị này sang thành phố kia, kiếm việc độ nhật, hoàn toàn không được hưởng một quyền lợi nào vì chế độ hộ khẩu. Không có hộ khẩu, họ trở thành những người ngụ cư trái phép trên đất nước của mình.

Những bất bình đẳng về mặt xã hội không chỉ đè nặng lên giai cấp vô sản mà còn tác động lên toàn bộ các tầng lớp trung gian. Sở dĩ khối tiền tiết kiệm ở Trung Quốc chiếm tỉ trọng cao nhất thế giới (45% thu nhập) vì đây là tiết kiệm bảo hiểm, vì theo đúng lô-gic của chủ nghĩa tư bản man dại, Nhà nước mệnh danh xã hội chủ nghĩa ở Bắc Kinh đã "xã hội hoá" (nghĩa là phủi tay, bỏ mặc) sự bảo hộ y tế, xã hội. Về tiền hưu trí, trước đây do các xí nghiệp chi trả, nay đã dần dần được thay thế bằng một hệ thống (nông dân và dân công bị loại ra ngoài) trong đó 80% là tiền tiết kiệm của từng cá nhân (theo số liệu năm 2003, hưu bổng của mỗi người trung bình khoảng 60€/tháng).Còn về y tế, ngay chính phủ cũng thừa nhận rằng " vì những lí do kinh tế, phần lớn những nhu cầu của xã hội ta không được thoả mãn". Tức là các bệnh viện phải tự mình tìm ra ngân sách vận hành, tiền thưởng cho bác sĩ tính theo thu nhập mà họ mang lại cho bệnh viện, tất cả đè lên đầu bệnh nhân. Kết quả là 2/3 bệnh nhân ở các thành phố và 3/4 bệnh nhân ở nông thôn không dám đi khám bệnh hay chữa bệnh. Khuyết tật của hệ thống y tế công cộng Trung Quốc đã phơi bày trong vụ xi-căng-đan bệnh AIDS xảy ra năm 1995 ở tỉnh Hà Nam (hàng trăm ngàn nông dân bị nhiễm bệnh khi bán máu) hay trong vụ dịch "cúm gà" SARS năm 2003 (vụ này cho thấy nhà cầm quyền vừa bất cập vừa muốn che đậy). Một dấu hiệu báo động khác: theo các nguồn tin của WHO (Tổ chức y tế thế giới) và PNUD (Chương trình LHQ vì phát triển), tuổi thọ trung bình ở Trung Quốc đã giảm xuống trong hai mươi năm qua (6). Chính quyền tất nhiên cũng ý thức rằng tình trạng căng thẳng về xã hội đang đe doạ "tính chính đáng" của mình. Theo thống kê chính thức của Bộ công an, năm 2004 đã xảy ra 74 000 cuộc biểu tình tập hợp 3,7 triệu người trên cả nước. Chính quyền để cho biểu tình như vậy như để "xả xú páp", nhưng mọi sự phản đối tập thể có tổ chức đều bị trấn áp, vì bị coi là đi ngược lại lô-gic của chế độ. Ở đây, ta có thể thấy rõ cái nghịch lí lịch sử mà chế độ Trung Quốc bị giam trong đó. Mặc dầu chính quyền đã chủ trương để cho các lực lượng an ninh (công an, quân đội) tham gia kiếm chác "làm kinh tế" để bảo đảm sự "trung với đảng" của các lực lượng vũ trang, nhưng người ta không thể điều hành công việc của một quốc gia đơn thuần với bộ máy đàn áp (người ta còn nhớ khẩu hiệu của đoàn biểu tình ở Đông Đức: "Stasi về nhà máy làm việc!"). Vì vậy mà họ chấp nhận rủi ro liên minh với "những lực lượng tiên tiến" của xã hội, mặc dầu thành phần này chứa đựng một nguy cơ tiềm thể trong mọi tình huống: tăng trưởng bị khựng lại, thì giao ước ổn định bị phá vỡ ; tăng trưởng tiếp tục theo đà của nó cho đến tận cùng của sự "làm giàu", thì "con chuột chũi" của Hegel sẽ đào xong mạng lưới địa đạo, hang ổ, các giai cấp trung gian sẽ đòi chia phần quyền bính. Đây không phải chỉ là suy luận suông. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc (nổi tiếng là có óc thực tiễn) biết rõ điều đó, nên họ đã coi "diễn biến hoà bình" là kẻ thù ưu tiên về mặt tư tưởng. Nhân dịp kỉ niệm 60 năm thành lập nhà nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, sử gia Lucien Bianco (sinh năm 1932), đã nói với nhật báo Le Monde (ngày 1.10.2009) rằng ông không hi vọng còn sống đến ngày Trung Quốc có dân chủ. Có thể như thế lắm. Nhưng về dài hạn, chúng tôi sẵn sàng đánh cuộc (dài hạn tới đâu, có trời biết, cho nên sự đánh cuộc của chúng tôi rất... an toàn).

Nguyễn Quang

nguyên tác tiếng Pháp: Berlin, vingt ans après

Chú thích:

(1) Tất nhiên không nói tới những thày bói chính trị kiểu Sarkozy dám khoe rằng ngay buổi sáng ngày 9.11.1989 đã biết trước, nhảy ngay lên máy bay, bay sang Berlin để chứng kiến tại chỗ bức tường sụp đổ buổi tối hôm đó. Giỏi quá là giỏi!

(2) 1989, Liberté à l'Est, ấn bản đặc biệt của báo Le Monde.

(3) E. Hobsbawm: L'Age des extrêmes. Le court 20ème siècle, 1914-1991. Nhà xuất bản Le Monde Diplomatique - André Versaille, 2003.

(4) Chớ nên tin vào điệp khúc của các nhà báo, doanh nhân hay chính khách được chính quyền Trung Quốc tổ chức cho đi thăm các "đặc khu" như ngày xưa chính quyền xô-viết đưa tiền bối của họ đi thăm các "thôn làng Potemkin". Những chứng từ duy nhất đáng tin là chứng từ của những người làm việc tại chỗ, nói Hán ngữ, sống với người dân Trung Hoa... Ví dụ P. Cohen, L. Richard, La Chine sera-t-elle notre cauchemar?, nxb 1001 Nuits, 2005. Xem thêm B. Cambreleng: Faut-il avoir peur de la Chine?, Milan Actu 2006 (phần lớn các số liệu về Trung Quốc trong bài lấy từ cuốn này).

(5) Bỏ hẳn sang một bên vấn đề đạo lý và chính trị, người tiêu thụ Tây phương có biết chăng, khi mua một món hàng Trung Quốc "rẻ rề", là: (1) mình làm giàu cho nhà nhập khẩu, nhà phân phối (ở phương Tây), chứ không hề làm giàu cho người lao động Trung Quốc ; (2) mình tham gia vào quá trình "dời chỗ sản xuất", phá tan từng mảng công nghiệp ở nước mình cũng như ở các nước thế giới thứ ba không có "ưu thế của Trung Quốc" ; (3) đẩy vào tình trạng thất nghiệp những người lao động mà bản thân mình sẽ phải trả tiền trợ cấp thông qua đồng thuế? Tóm lại, "rẻ rề" có nghĩa là "quá đắt"! Thí dụ rất ý nghĩa: vừa qua Châu Âu đã bãi bỏ cô-ta nhập khẩu hàng may mặc từ Trung Quốc, kết quả là hàng hoá đến tay người tiêu thụ không hề giảm giá chút nào, trong khi các nhà máy trong khu vực này ở Châu Âu đua nhau bị "chuyển chỗ", và công nghiệp may mặc của Bắc Phi lâm vào tình trạng sống dở chết dở.

(6) Trong tác phẩm nổi tiếng La chute Finale (Robert Laffont, 1976), nhà dân số học kiêm sử học Emmanuel Todd đã tiên đoán được sự sụp đổ của hệ thống xô-viết khi ông phân tích các dữ liệu dân số học, đặc biệt những thống kê về tuổi thọ.