Bách Khoa Thư Lịch Sử

New Zealand (1792–1907)

NEW ZEALAND (1792–1907)

Sau gần một nghìn năm là cộng đồng cư dân duy nhất ở New Zealand, người Maori đột nhiên lâm vào tình thế phải tranh giành đất đai với những người từ nơi khác tới.

Những người săn cá voi thuộc số những người châu Âu đầu tiên định cư ở New Zealand và các hòn đảo lân cận trong Thái Bình Dương.

Những cư dân đầu tiên ở New Zealand là người Maori. Họ tới bằng xuồng từ các hòn đảo khác ở Thái Bình Dương và bắt đầu định cư tại đây vào đầu thế kỷ IX, chủ yếu dọc bờ biển và các con sông của đảo Bắc (North Island), ngoài ra cũng thành lập các cộng đồng ít người hơn ở đảo Nam (South Island). Từ cuối thế kỷ XVIII, những nhà truyền giáo và người săn cá voi đến lập nhiều khu định cư và trạm thông thương, bất chấp sự phản đối của người Maori. Đến những năm 1830, số người châu Âu tới định cư ngày càng tăng ở đảo Bắc của New Zealand bắt đầu gây rắc rối. Những người mới tới định cư cần những vùng đất rộng để chăn cừu. Còn người Maori ở địa phương trồng cây lương thực cũng như đánh cá, săn bắn, và họ hoan nghênh các hoạt động buôn bán.

Theo truyền thuyết của người Maori, đảo Bắc của New Zealand do người anh hùng Maui của họ tạo ra. Họ tin rằng tất cả đất đai phải được trông nom gìn giữ cho đời sau, nên việc bán đất là đi ngược với truyền thống của họ. Đây là lý do họ không muốn bán đất cho người châu Âu tới định cư.

CHỦ QUYỀN CỦA ANH

Đến những năm 1830, nhiều người Maori chết vì những căn bệnh do người châu Âu vô tình mang đến. Cả những người Âu định cư lẫn người Maori đều muốn người Anh đề ra luật lệ rõ ràng và họ kêu gọi nước Anh giúp đỡ.

Trước khi người châu Âu tới, người Maori không có kẻ thù bên ngoài, các nhóm bộ lạc người Maori thường giao tranh với nhau. Các bộ lạc này thường sống trong các ngôi làng có thành lũy bảo vệ giống như ngôi làng nhìn ra hồ Rotorua này.
Phụ nữ Maori đang thực hiện nghi thức ongi (chạm mũi vào nhau) ở Taranaki trên bờ biển phía Tây của đảo Bắc của New Zealand. Đỉnh núi Egmon (cao 2517 mét) có thể nhìn thấy ở đằng xa.

Năm 1840, một đại diện của chính phủ Anh cùng với 50 thủ lĩnh người Maori đã ký Hiệp ước Waitangi. Hiệp ước quy định, nếu người Maori trao quyền kiểm soát New Zealand cho đế quốc Anh và thừa nhận nữ hoàng Victoria là người có quyền lực tối cao đối với họ, thì người Anh sẽ bảo vệ mọi quyền sở hữu đất của người Maori. Theo thỏa thuận này, New Zealand cũng trở thành thuộc quốc của New South Wales, Australia. Người định cư châu Âu tiếp tục chiếm đất của người Maori. Nhiều người trong số họ cho rằng họ mua đất một cách hợp pháp. Nhưng do hiệp ước có hai phiên bản, nên người Maori nghĩ rằng họ chỉ đồng ý trao “toàn quyền quản lý” cho người Anh. Trong những năm 1845–1848, đã xảy ra một số cuộc nổi dậy của người Maori.

Các nhóm bộ lạc người Maori thường đánh lẫn nhau. Các chiến binh Maori trang trí khuôn mặt bằng hình xăm cầu kỳ để nhận ra nhau khi lâm trận.

CÁC CUỘC CHIẾN TRANH CỦA NGƯỜI MAORI

Năm 1860, chiến tranh bùng nổ giữa người Maori và những người mới tới định cư. Mặc dù chiến đấu rất dũng cảm nhưng rốt cuộc, người Maori buộc phải rút lên núi. Hòa bình được thiết lập vào năm 1871, và năm 1907 New Zealand trở thành lãnh thổ tự trị của đế quốc Anh. New Zealand phát triển thịnh vượng và số người Maori lại tăng lên.

CÁC MỐC THỜI GIAN CHÍNH

Những năm 1790 Những người châu Âu đầu tiên tới định cư

1839 Thành lập Công ty New Zealand ở London

1840 Người Anh và người Maori ký Hiệp ước Waitangi

1841 New Zealand trở thành thuộc địa của Anh

1845 Cuộc nổi dậy đáng kể đầu tiên của người Maori

1860 Chiến tranh quy mô lớn bùng nổ

1871 Hòa bình được thiết lập lâu dài

1882 Việc xuất khẩu thịt được thực hiện nhờ có tàu đông lạnh đầu tiên

1907 New Zealand trở thành một lãnh thổ tự trị của đế quốc Anh

Các cuộc nổi dậy của người Maori diễn ra trong những năm 1845–1848 và 1860–1870. Sau đó, những người thực dân định cư nhượng bộ và một nền hòa bình lâu dài được thiết lập.