Ám vệ Cửu ngơ ngác, như nằm trong biển lửa tại phủ Tư Đồ, không biết Tư Đồ Nhã ở đâu, muốn đứng dậy đi tìm, lại không thể động đậy. Dần dần, một chiếc mặt nạ bạc mờ mờ hiện rõ, bóng đen nhoáng lên, ghé vào tai hắn nỉ non, Tư Đồ Nhã đang ở Ma Giáo, mạng sắp hết rồi. Hắn bừng tỉnh, xung quanh ẩm thấp tĩnh lặng, ánh nắng ảm đạm bên ngoài.
Lọt vào mắt là bốn mặt tường đất tứ hợp, gạo nếp nhão, khoảnh sân đầy dấu chân lầy lội, trận tuyết lớn vừa qua, rất yên tĩnh.
Ám vệ Cửu khép lại vạt áo ẩm ướt, vạch rõ tình hình, mình đang ở đâu. Phảng phất nhớ tới câu nói cuối cùng của ‘Ân Vô Hận’ đêm qua, hai mươi năm trước chính tà ác chiến, Ân Vô Hận trúng ‘Thiên Hoan Đoạn Tuyệt Tán’, mỗi khi vận nội công, các huyệt Thiên Trụ, Thừa Phù sẽ ngứa ngáy khó chịu, phải chăn gối với người khác, nuốt nguyên tinh như rượu độc giải khát, nhưng chăn gối đúng một nghìn lần thì kinh mạch sẽ đứt đoạn mà chết. Khi ‘Ân Vô Hận’ phóng túng với hắn thì đã là lần thứ chín trăm chín mươi chín, thêm một lần nữa sẽ là đại nạn, nên thể lực không bền, khó dài lâu.
Tất nhiên đó chỉ là Tư Đồ Nhã bịa chuyện để rời đi. Y hi vọng ám vệ Cửu tỉnh lại, phát hiện Hoan Hỉ Giáo đã rút lui thì chỉ coi như ‘Ân Vô Hận’ nợ máu chưa đòi, không muốn làm khó tình xưa, không muốn chết bên cạnh người trong lòng, nên mới chừa lại đường lui cho hắn.
Ám vệ Cửu cũng không nghĩ nhiều, tập tễnh xốc mành lên, thấy Tư Đồ Nhã êm ấm nằm trên giường, biết ‘Ân Vô Hận’ giữ lời hứa, cả người chợt mất hết sức lực, nằm xuống trước giường, nhấc cổ tay Tư Đồ Nhã lên bắt mạch —
Tư Đồ Nhã giả vờ ngủ, tức khắc dùng Cửu Như Thần Công chặn huyết khí tại các yếu huyệt. Theo ám vệ Cửu, ngoại trừ khí huyết hơi ứ đọng thì không đáng lo. Hắn khẽ thả lỏng, dè dặt vuốt ve bàn tay Tư Đồ Nhã, nhắm mắt cúi đầu, giờ mới thấy dễ chịu hơn.
Tư Đồ Nhã mềm nhũn cả lòng, chỉ muốn tỉnh lại ngay tức khắc để ôm ám vệ Cửu thật chặt. Ám vệ Cửu lại im lặng quay về gian phòng ngoài, vốc nước trong thùng tắm lạnh buốt, rửa kem dịch dung, tiếp tục tự kiểm điểm, hắn vào phủ cứu hoả, hại Tư Đồ Nhã rơi vào tay Ma Giáo, dịch dung bảo vệ Bộ Bạch Thu, không ngờ còn hại chết Bộ Bạch Thu. Làm gì cũng sai. Có lẽ vì võ công của hắn không cao, đầu óc cũng không đủ dùng…
Tư Đồ Nhã nghe thấy tiếng nước từ gian ngoài, mà hơi thở của ám vệ Cửu khá dồn dập, đoán là hắn đang dọn dẹp dấu vết đêm qua, biết vậy nên buồn bực lắm. Y cứ tưởng ám vệ Cửu sẽ cuống quýt giải huyệt cho y ngay lập tức, mừng mừng tủi tủi nhận mặt y. Chiếu theo tình hình này, có lẽ hắn muốn giấu giếm, không cho y biết chuyện.
Ám vệ Cửu lặng lẽ lau sạch dịch nhờn ‘Ân Vô Hận’ để lại, sửa sang căn phòng bừa bộn, bưng thùng tắm đến nhà kề*, lại mở tủ mượn một chiếc áo khoác bình thường để mặc, tiện đà đi vào kho chứa củi, định nhóm lửa nấu cơm. Giống như làm những chuyện bình thường thì tất cả sẽ khôi phục như thường.
*Nhà kề nằm bên cạnh nhà chính trong tứ hợp viện – Một kiểu nhà truyền thống của người Trung Quốc:
Hắn mở cửa nhà kho, phát hiện một nam một nữ nằm trong góc, bất tỉnh nhân sự. Bên cạnh còn có mấy gã đàn ông nằm la liệt, tất cả đều mặc áo vạt cân và quần đũng rộng, na ná giống người Ba Thục. Lấy tay sờ thử, hô hấp vẫn còn, là bị Ma Giáo điểm huyệt ngủ.
Hắn không giải huyệt mà đi chẻ củi đun nước, ninh gạo nấu cháo. Bận rộn nấu xong mới đi gọi Tư Đồ Nhã. Nhưng rồi lại bàng hoàng đảo qua đảo lại hơn mười vòng ở bên ngoài, cuối cùng ngồi bệt xuống cạnh tấm mành, khoanh tay, cả người đau âm ỉ, nhìn tứ hợp viện xây bằng đất đơn sơ và sắc trời mỗi lúc một sáng, ngơ ngơ ngẩn ngẩn.
“Ám vệ Cửu.” Chẳng biết bao lâu sau, bên trong truyền ra một tiếng nói mê.
Ám vệ Cửu giật mình phát hiện đã qua giờ điểm huyệt, đang ngập ngừng định đứng dậy chào, Tư Đồ Nhã đã sốt ruột vén mành đi ra.
Hai người đối diện một lát. Tư Đồ Nhã dụi dụi đôi mắt đỏ hoe, vẫn như đang nằm mơ, không dám tin mà hỏi, “Ngươi… Chưa chết sao?”
Ám vệ Cửu hạ mắt, áy náy đáp, “Thuộc hạ đến muộn.”
Tư Đồ Nhã xoa đầu hắn một cái, “Sao ngồi dưới đất, sao không gọi ta dậy?”
Ám vệ Cửu nghe vậy thì ngước lên, đôi mắt sáng lạ thường, khóe mắt đỏ lên rồi giấu kín, nở nụ cười trấn an, hạ giọng trả lời, “Nấu cháo.”
Tư Đồ Nhã giật mình, âm thầm lặp lại, nấu cháo.
Hai chữ bình thường, lại khiến kế hoạch bùi ngùi gặp lại, cầm tay nhìn nhau, hai mắt đẫm lệ, thề non hẹn biển, cùng sinh cùng tử y chuẩn bị mấy canh giờ tan thành mây khói. Ám vệ Cửu chỉ nghĩ y gặp nạn chưa hoàn hồn, định nói vài lời an ủi, nhưng chẳng biết phải nói những gì, dắt y ra nhà chính ngồi, dọn cháo trắng dưa muối lên, đứng bên cạnh bẩm báo, “Chủ nhà bị nhốt trong kho, thuộc hạ đi gọi họ dậy hỏi thăm hay là để lại ít bạc?”
“Đừng vội.” Tư Đồ Nhã không có khẩu vị, gác đũa, quan sát ám vệ Cửu như không có chuyện gì xảy ra.
Ám vệ Cửu nói, “Phủ cháy, không biết hiện giờ ra sao, thuộc hạ cho rằng phải mau chóng về phủ…” Nói đến đây mới phát hiện Tư Đồ Nhã nhìn mình chằm chằm. Hắn không dám đối diện với ánh mắt trầm tĩnh sâu sắc nọ, có tật giật mình, giấu đầu hở đuôi, xấu hổ lùi lại nửa bước.
Tư Đồ Nhã tung ra bản án, “Không đúng.”
Ám vệ Cửu đáp lời, quỳ xuống, hắn cũng không định nói dối, nhưng lại bất giác giấu giếm chuyện ô nhục đêm qua. Nhưng khi về phủ, nhìn thấy thi thể Bộ Bạch Thu, sớm hay muộn Tư Đồ Nhã cũng sẽ hiểu rõ tình hình. Hắn chỉ muốn trì hoãn khoảnh khắc ấy, để tiểu chủ nhân thanh cao tao nhã của hắn sẽ thân thiết với hắn thêm một lát, nhưng đúng là chỉ lừa mình dối người mà thôi.
Tư Đồ Nhã dứt khoát đẩy ghế ra, vén áo quỳ xuống đối diện với hắn như bái thiên địa, cố chấp nhìn thẳng vào mắt hắn, dịu dàng hỏi, “Sao ngươi biết ta ở đây? Bộ chưởng môn và đám người Ma Giáo đi đâu rồi?”
Ám vệ Cửu không dám nói dối, dập đầu xuống đất, không dám lên tiếng, chẳng biết là nhận tội, hay là muốn tránh không nhìn vào mắt Tư Đồ Nhã.
Tư Đồ Nhã không lường trước tình huống này, bình thường bị oan ức thì chỉ muốn kể khổ với người mình tin cậy, ám vệ Cửu lại như tấm sắt vững vàng không gì phá nổi, trông có vẻ trung thành, nhưng nội tâm lại ương bướng cực kỳ, không thể ép hắn nhận ra việc giả mạo Bộ Bạch Thu chịu chết là sai ở đâu. Y hết cách, đành phải dập đầu theo hắn, thầm nghĩ, tổ tông ơi. Ngoài mặt vẫn dịu dàng nhã nhặn nói, “Ngươi không muốn nói, ta sẽ không hỏi. Ta và ngươi thuận vợ thuận chồng. Còn sống là được, miễn cho ta tâm đủ phúc không đủ, phải chôn cùng với ngươi. Đứng dậy thôi, đi gọi chủ nhà ra đây nói chuyện.”
Ám vệ Cửu nghe vậy thì cứng người, tiểu chủ nhân của hắn rộng lượng tới vậy, hắn là ám vệ mà quá yếu đuối so với Ma Giáo, lại không thể nói ra sự thật, bèn tiếp tục dập đầu. Tư Đồ Nhã đành phải dập đầu với hắn một lát, lải nhải như bái Bồ Tát, “Người khác chỉ phu thê giao bái một lần thôi, chúng ta hai lần tức là nhân duyên hai kiếp. Ngươi không được bỏ mặc ta.”
Ám vệ Cửu chỉ nghĩ Tư Đồ Nhã quan tâm săn sóc, cố tình mua vui cho hắn, tâm trạng lại càng xác xơ, nhưng vẫn nể mặt cười khan một tiếng, nặng nề tuân lệnh đi vào kho. Câu nói sau cùng của Tư Đồ Nhã thốt ra từ tận đáy lòng, nhưng chỉ đổi về nụ cười ngây ngô chẳng hề để tâm của ám vệ Cửu, y cũng chán nản, chỉ muốn quay về lốt ‘Ân Vô Hận’, túm lấy ám vệ Cửu tái chiến ba trăm hiệp, xem hắn còn cười nữa không.
Đưa chủ nhân trạch viện tới, khách sáo trò chuyện một hồi, ám vệ Cửu biết đó là một thợ xây, có một lò gạch nhỏ bằng túp lều tại Long Tuyền trấn, là nghề nghiệp đứng đắn. Hỏi tình hình đêm qua, một hỏi ba không biết. Thợ xây mơ hồ nhớ lại chuyện Ma Giáo đột nhập đêm qua, rồi hai người này từ trên trời giáng xuống rút đao tương trợ, lệnh học nghề pha trà, kiểm kê tài sản đồ đạc, thấy không mất thứ gì mới chân thành nói, “Nhờ hai vị hiệp khách cứu giúp mới giữ được tính mạng già trẻ người Hẹ* chúng ta. Mới nãy cứ tưởng người bản xứ vào quấy rối, nên tiếp đãi không chu đáo.” (Chỉ người Hán từ lưu vực sông Hoàng Hà dần dần di chuyển đến phương Nam từ thế kỷ thứ 4 (cuối đời Tây Tấn), thế kỷ thứ 9 (cuối đời Đường), thế kỷ thứ 13 (cuối đời Nam Tống), nay phân bố ở các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Quảng tây, Giang Tây, Hồ Nam, Đài loan…)
Tư Đồ Nhã nói, “Ông chủ quá lời rồi, chẳng hay vì sao lại xưng là người Hẹ?”
Thợ xây thấy y vận gấm Tứ Xuyên, khoác áo lông dê trắng muốt, chắc mẩm là gia đình giàu có, bèn kiên nhẫn đáp, “Bẩm công tử, chúng ta bốn biển là nhà, nên là người Hẹ.”
Tư Đồ Nhã gật đầu, “Nghe lão ca nói vậy, tiểu đệ cũng muốn làm một người Hẹ tự do tự tại.”
Thợ xây lấy tẩu thuốc, hít một hơi, khoát tay nói, “Không ổn đâu, chúng ta làm người Hẹ chỉ vì bất đắc dĩ thôi. Bị dân bản địa ức hiếp, không bán được ngói, lò nung thì bị đập phá hai ngày một lần nên chẳng có gì tốt để đền ơn hai vị. Người giang hồ các vị coi vàng như cỏ rác, có đưa thì các vị cũng không bằng lòng, hay là thế này đi, bao giờ nóc nhà các vị thủng thì cứ đến Long Tuyền trấn tìm ta, cứ hỏi người Hẹ thợ xây thì ai cũng biết là ta.”
Ba câu đều ẩn ý là không có tiền, ngược lại còn kết mối làm ăn. Tư Đồ Nhã tự nhiên khâm phục, liếc mắt nhìn ám vệ Cửu, mỉm cười nói, “Tiểu đệ là người tầm thường, huống hồ Khổng Tử viết, ‘Phú và Quý, là khát vọng căn bản của loài người’, há có thể coi là cỏ rác. Nói đến mua bán, sớm không bằng kịp lúc, tiểu đệ cũng mới biết, hiện giờ thành Ích Châu có một gia đình giàu có đang cần tân trang mái ngói, không chỉ ngói, mà còn cần thợ đá thợ mộc.”
Thợ xây sáng mắt, liến thoáng nói luôn, “Thiếu hiệp tìm đúng người rồi, người Hẹ chúng ta chẳng có gì ngoài tay nghề giỏi, có cả Lỗ Ban chuyển thế, chúng ta gọi hắn là Lỗ Nhất Ban, khi trước nổi tiếng bên bờ Hoàng Hà, cả người Đột Quyết cũng muốn mời hắn đến xây nhà.”
Tư Đồ Nhã nhìn ám vệ Cửu, thỉnh giáo, “Sư huynh, người Đột Quyết lợp lều bằng cỏ nước mà cũng cần xây nhà sao?”
Ám vệ Cửu không nhớ nổi tiếng ‘Sư huynh’ này từ đâu mà ra, lại càng không biết Tư Đồ Nhã đang tính toán gì, bèn nói, “Chắc… Chắc là, cũng xây.”
Thợ xây vỗ đùi nói, “Sao lại không xây, bao nhiêu thành trì phương Bắc hồi xưa đều là bọn ta xây. Đột Quyết cứ hỏng là đòi xây lại, lợp ngói, sửa pháo đài, đúc cốt xe, xây rồi lại hỏng. Lỗ lão ca không muốn giúp người Đột Quyết nên mới đưa chúng ta chạy nạn tới Thục. Nghe nói bây giờ Đại Bắc hầu lợi hại lắm, lúc mới đi nhậm chức còn nói một tiếng ‘Tạm để rượu đó’*, vung giáo lên, thét một câu ‘Các ngươi cút!’, đánh chúng chạy về biên quan, mười mấy năm nay không dám mon men tới đây. Ta không được chứng kiến nhưng cũng hả giận lắm. Mà chính vị Hầu gia này cũng muốn mời Lỗ lão ca xuống núi cơ đấy. ” (*Dựa theo điển tích Quan Vũ chém Hoa Hùng, Quan Vũ ra trận quay về thì chén rượu vẫn còn nóng, chi tiết xem ở đây)
Tư Đồ Nhã và ám vệ Cửu đồng loạt nhìn thợ xây.
Thợ xây vội la lên, “Thật đó. Hai vị ngồi đây, ta đi gọi Lỗ lão ca đến nói chuyện luôn.”
Tư Đồ Nhã bái phục sát đất công phu khoác lác của thợ xây, chỉ đáp không cần, dặn ám vệ Cửu thuê xe ngựa, theo thợ xây đến lò gạch dạo một vòng, chỉ thấy trong lều đầy đủ ngói xanh ngói trắng, đào phôi (đồ nặn bằng đất chưa đem nung) ngăn nắp chỉnh tề, bên dưới còn có khe hở và cạnh lồi, hóa ra loại ngói này nối liền với nhau sẽ thành một khối không thể gỡ ra, đề phòng trộm cướp dỡ ngói thổi khói mê.
Lúc này Tư Đồ Nhã mới biết đúng là thợ xây cũng có tài, thật lòng khen ngợi đôi câu, thợ xây nghe mà sung sướng, lại khoe ra ngũ tích lục thú* khắc trên chỗ phun ám khí tại nóc nhà, nói rằng tay nghề của Lỗ Nhất Ban còn hiệu quả hơn cả nuôi chó, nhà giàu ban đêm cứ ngủ vô tư. Tư Đồ Nhã tỏ vẻ hài lòng, mời thợ xây cùng về phủ đệ ở Ích Châu, hai người bàn bạc trên đường, thỏa thuận giá cả, nhân lúc cháy nhà, tranh thủ bòn tiền của Tư Đồ Khánh. Nếu y bắc cầu giật dây, móc nối được mối làm ăn này, đám thợ xây người Hẹ sẽ trả thù lao cho y. Dọc đường, ám vệ Cửu trầm ngâm không nói, trong lòng ngổn ngang giày vò và tự kiểm điểm, không rảnh mở miệng.
*Ngũ tích lục thú: Trên mái ngói thường có bốn đường dài kéo từ đỉnh xuống dưới. Dưới chân bốn đường này thường có đầu rồng và năm con thú ngồi theo thứ tự. Đây là thần thú trấn tích có ba chức năng quan trọng là: mang lại may mắn, trang trí và trấn thủ toà nhà. Bởi vì kiến trúc cổ có kết câu bằng gỗ, nên dùng thần thú trấn tích để tránh hỏa hoạn thiên tai. Ngoài ra, hai bên sườn mái nhà có nhiều ngói đan xen vào nhau, nên rồng nuốt thú là dùng để chắn gió, đề phòng nước mưa thấm làm dột. Vừa làm đồ trang trí, vừa bảo vệ gia đình: