Ám Ảnh Từ Kiếp Trước - Bí Mật Của Sự Sống Và Cái Chết

Chương 9

Mỗi tuần lại có thêm một lớp sợ hãi và lo lắng được lột bỏ khỏi Catherine. Mỗi tuần cô lại thêm an bình hơn, dịu dàng hơn và kiên nhẫn hơn. Cô trở nên tự tin hơn và mọi người bị cô hấp dẫn. Catherine cảm thấy nhiều yêu thương hơn và những người khác đáp trả tình yêu với cô. Viên kim cương bên trong là cá tính chân thật của cô đang tỏa sáng rực rỡ cho tất cả nhìn thấy.

Sự hồi quy của Catherine trải rộng trên một thiên niên kỷ. Mỗi khi cô ấy đi vào trạng thái xuất thần thôi miên, tôi không hề có ý niệm nào về nơi mà những manh mối kiếp sống của cô sẽ xuất hiện. Từ hang đá thời tiền sử đến Ai Cập cổ đại cho đến thời hiện đại – cô đã ở đó. Và mọi kiếp sống của cô đều được các Bậc thầy chăm nom trong yêu thương, có lúc còn vượt ngoài thời gian. Trong phiên trị liệu hôm nay cô xuất hiện trong thế kỷ XX nhưng không phải là Catherine.

“Tôi thấy một thân máy bay và một bãi đáp, một loại bãi đáp nào đó,” cô nhẹ thì thầm.

“Cô biết đó là đâu không?”

“Tôi không thấy… Alsatian?” rồi khẳng định hơn, “Alsatian.”

“Ở Pháp?”

“Tôi không biết, chỉ là Alsatian…. Tôi thấy tên Von Marks [phiên âm]. Một loại nón sắt màu nâu hay mũ lưỡi trai… loại mũ có kính bảo hộ trên đó. Phân đội đã bị tiêu diệt. Hình như đây là một vùng đất rất xa xôi. Tôi nghĩ là không có thị xã nào gần đó.”

“Cô thấy gì?”

“Tôi thấy những tòa nhà bị phá hủy. Tôi thấy những tòa nhà…. Vùng này đang bị cày xới vì… bom. Có một nơi trú ẩn rất tuyệt.“

“Cô đang làm gì?”

“Tôi đang giúp họ chăm sóc những người bị thương. Họ sẽ mang những người bị thương đi.”

“Hãy nhìn vào chính cô. Mô tả chính cô. Cúi xuống và nhìn xem cô đang mặc gì.”

“Tôi mặc một loại áo khoác nào đó. Tôi tóc vàng. Mắt tôi xanh dương. Áo khoác của tôi rất bẩn. Có rất nhiều người bị thương.”

“Cô có được huấn luyện để giúp đỡ những người bị thương không?”

“Không.”

“Cô sống ở đó hay cô được mang đến đó? Cô sống ở đâu?”

“Tôi không biết.”

“Cô mấy tuổi?”

“35.” Bản thân Catherine đang 29 tuổi và mắt cô nâu nhạt chứ không phải xanh dương. Tôi tiếp tục hỏi.

“Tên cô là gì? Trên áo khoác có ghi không?”

“Có đôi cánh trên áo khoác. Tôi là một phi công… một loại phi công gì đó.”

“Cô lái máy bay phải không?”

“Đúng, tôi phải lái.”

“Ai ra lệnh cho cô bay?”

“Tôi có nhiệm vụ bay. Đó là công việc của tôi.”

“Cô cũng thả bom chứ?”

“Chúng tôi có một xạ thủ trên máy bay. Có một hoa tiêu.”

“Cô lái loại máy bay gì?”

“Một loại máy bay trực thăng nào đó. Nó có bốn động cơ. Đó là loại cánh cố định.” Tôi thấy thích thú vì Catherine chẳng biết gì về máy bay. Tôi tự hỏi cô nghĩ “cánh cố định” nghĩa là gì. Nhưng cũng giống như trường hợp làm bơ hay ướp xác, khi được thôi miên cô sở hữu một kho kiến thức khổng lồ. Tuy nhiên, chỉ có một phần kiến thức này hoạt động trong tư duy ý thức hàng ngày của cô. Tôi tiếp tục.

“Cô có gia đình không?”

“Họ không ở đây với tôi.”

“Họ có an toàn không?”

“Tôi không biết. Tôi sợ… sợ rằng chúng sẽ quay lại. Bạn tôi đang hấp hối!”

“Cô sợ ai sẽ quay lại?”

“Kẻ địch.”

“Chúng là ai?”

“Quân Anh… Không quân Mỹ… quân Anh.”

“Ừ. Cô có nhớ gia đình mình không?”

“Nhớ ư? Có quá nhiều thứ bất an.”

“Hãy quay lại trong kiếp sống đó, quay lại thời gian hạnh phúc hơn, trước chiến tranh, thời gian ở cùng gia đình tại nhà. Cô có thể thấy nó chứ ? Tôi biết điều đó khó nhưng tôi muốn cô thư giãn. Cố gắng và nhớ lại.”

Catherine tạm nghỉ, rồi thì thầm, “Tôi nghe cái tên Eric… Eric. Tôi thấy một đứa trẻ tóc vàng, bé gái.”

“Con gái của cô phải không?”

“Đúng, nó phải là… Margot.”

“Cô bé có đang ở gần cô không?”

“Cô bé đang ở với tôi. Chúng tôi đi dã ngoại. Đó là một ngày đẹp trời.”

“Có ai khác ở đó với cô không? Ngoài Margot?”

“Tôi thấy một phụ nữ tóc nâu đang ngồi trên cỏ.”

“Cô ấy là vợ của cô phải không?”

“Đúng… tôi không biết cô ấy,” cô nói thêm, ý muốn nói đến việc có nhận ra ai trong kiếp sống hiện tại của Catherine.

“Cô có biết Margot không? Hãy nhìn kỹ Margot. Cô có biết cô bé này không?”

“Có, nhưng tôi không chắc bằng cách nào... tôi biết cô bé ở đâu đó.”

“Cô sẽ nhớ ra thôi. Nhìn vào mắt cô bé.”

“Đó là Judy,” cô đáp. Judy hiện thời là bạn thân nhất của Catherine. Họ đã có được sự thấu hiểu tức thời khi gặp mặt lần đầu và trở thành bạn thân của nhau, tin tưởng nhau tuyệt đối, biết được ý nghĩ và nhu cầu của nhau trước khi nói thành lời.

“Judy?” tôi hỏi lại.

“Đúng, Judy. Cô bé trông giống cô ấy… cô bé cười cũng giống cô ấy.”

“Đúng, tốt lắm. Cô có hạnh phúc ở quê nhà không hay gặp phải vấn đề gì?”

“Không có vấn đề gì.” [Ngưng dài] “Đúng. Đúng, đó là thời gian bất ổn. Có một vấn đề sâu xa trong chính phủ của Đức, cấu trúc chính trị. Có quá nhiều người muốn đi theo quá nhiều hướng. Điều đó chắc chắn sẽ chia rẽ chúng tôi… nhưng tôi phải chiến đấu cho đất nước của mình.”

“Cô có yêu nước sâu sắc không?”

“Tôi không thích chiến tranh. Tôi cảm thấy sai lầm khi giết chóc nhưng tôi phải làm nhiệm vụ của mình.”

“Giờ hãy quay lại, quay lại nơi cô ở trước đây, chỗ máy bay ở trên mặt đất ấy, đang có đánh bom và chiến tranh. Trễ rồi; chiến tranh đã bắt đầu. Quân Anh và quân Mỹ đang thả bom gần cô. Quay lại. Cô có thấy lại chiếc máy bay không?”

“Có.”

“Cô vẫn còn cùng cảm giác về nhiệm vụ, về giết chóc và chiến tranh chứ?”

“Đúng, chúng tôi sẽ chết vô nghĩa.”

“Sao?”

“Chúng tôi sẽ chết vô nghĩa,” cô lập lại bằng lời thì thầm lớn hơn.

“Vô nghĩa? Tại sao lại vô nghĩa? Không có vinh quang sao? Không chiến đấu cho đất nước hay những người cô yêu thương sao?”

“Chúng tôi sẽ chết vì chiến đấu cho ý tưởng của chỉ vài người.”

“Ngay cả khi đó là những người lãnh đạo đất nước của cô sao? Họ có thể sai...”

“Họ không phải là lãnh đạo. Nếu họ là lãnh đạo thì sẽ không có quá nhiều đấu đá nội bộ... trong chính phủ.” Cô ấy nhanh chóng cắt lời tôi.

“Một vài người gọi họ là những kẻ điên. Cô thấy điều đó hợp lý không? Cuồng quyền lực?”

“Tất cả chúng tôi hẳn đều điên khi để họ đẩy đi, khi cho phép họ đẩy mình... giết người. Và giết chính chúng tôi...”

“Có bạn bè nào của cô vẫn còn sống không?”

“Có, vẫn còn vài người còn sống.”

“Có ai mà cô đặc biệt thân thiết không? Trong phi hành đoàn của cô ấy? Xạ thủ và hoa tiêu của cô vẫn sống chứ?”

“Tôi không thấy họ nhưng máy bay của tôi không bị phá hủy.”

“Cô có bay trở lại bằng máy bay đó không?”

“Có, chúng tôi phải nhanh chóng đưa những máy bay còn lại rời khỏi đường băng... trước khi chúng trở lại.”

“Hãy quay lại máy bay của cô.”

“Tôi không muốn đi.” Cô nói như thể đang thương thảo với tôi.

“Nhưng cô phải đưa nó rời khỏi mặt đất.”

“Điều đó hết sức vô nghĩa...”

“Trước chiến tranh cô làm nghề gì? Cô có nhớ không? Eric đã làm nghề gì?”

“Tôi là cấp phó... trên một chiếc máy bay nhỏ, loại máy bay chở hàng.”

“Thế nghĩa là trước đó cô cũng là một phi công?”

“Đúng.”

“Cô phải thường xuyên xa nhà?”

Cô trả lời rất nhẹ, đầy tiếc nuối, “vâng.”

“Tiến nhanh về thời gian,” tôi hướng dẫn, “đến chuyến bay tiếp theo. Cô có làm được không?”

“Không có chuyến bay tiếp theo.”

“Chuyện gì đã xảy đến cho cô à?”

“Vâng.” Hơi thở của cô dồn dập và cô trở nên nhanh nhẹn. Cô ấy đang tiến đến ngày mình chết.

“Có chuyện gì vậy?”

“Tôi đang chạy trốn lửa. Nhóm của tôi bị chia cắt vì lửa.”

“Cô có sống sót được lần này không?”

“Không ai sống sót... không ai sống sót trong cuộc chiến. Tôi đang hấp hối!”

Hơi thở của cô nặng nề. “Máu! Máu khắp nơi! Tôi bị đau ở ngực. Tôi bị bắn trúng ở ngực... và ở chân... ở cổ nữa. Cực kỳ đau đớn...” cô quằn quại; nhưng ngay sau đó hơi thở của cô chậm dần và điều hòa hơn; cơ mặt giãn ra và vẻ bình yên đến với cô. Tôi nhận ra sự an bình của trạng thái trung gian.

“Cô trông thoải mái hơn nhiều. Mọi chuyện đã qua chưa?” Cô tạm ngưng, rồi nhẹ nhàng trả lời.

“Tôi đang bay lên... thoát khỏi cơ thể mình. Tôi không có cơ thể. Tôi lại ở trạng thái tâm linh.”

“Tốt. Thư giãn. Cô đã qua một kiếp sống khó khăn. Cô trải qua một cái chết đau đớn. Cô cần nghỉ ngơi. Hãy tự hồi phục. Cô học được gì từ kiếp sống đó?”

“Tôi đã học về sự chán ghét... giết chóc vô nghĩa... chán ghét sự định hướng lầm lạc... những người chán ghét mà không biết tại sao. Chúng tôi bị lôi kéo theo điều đó... do ma quỷ, khi chúng tôi ở trạng thái vật lý...”

“Có nghĩa vụ nào cao hơn nghĩa vụ đối với Tổ quốc không? Điều gì đó có thể ngăn cản cô giết chóc? Thậm chí ngay cả khi cô bị ra lệnh? Một nghĩa vụ đối với chính cô?”

“Có...” nhưng cô không nói gì thêm.

“Hiện cô đang chờ đợi điều gì phải không?”

“Vâng... tôi đang đợi đi vào một trạng thái tái sinh. Tôi phải chờ. Họ sẽ đến với tôi... họ sẽ đến...”

“Tốt. Tôi muốn nói chuyện với họ khi họ đến.”

Chúng tôi chờ thêm vài phút. Thình lình giọng cô lớn và khàn và đó là Bậc thầy tâm linh ban đầu, không phải Bậc thầy thi ca, đang nói.

“Ông đã đúng khi giả định đây là một biện pháp trị liệu thích hợp cho những người đang ở trạng thái vật lý. Ông phải xóa bỏ cảm giác sợ hãi trong trí óc của họ. Năng lượng sẽ bị lãng phí khi sợ hãi có mặt. Nó ngăn trở họ hoàn tất những gì họ được gửi đến đây để hoàn tất. Hãy nắm bắt những tín hiệu ở quanh ông. Trước tiên họ phải được đưa vào trạng thái sâu, rất sâu... ở mức mà họ không còn cảm nhận được cơ thể của mình. Lúc đó ông có thể tiếp cận họ. Đó chỉ là bề mặt... nơi chứa những rắc rối. Sâu bên trong tâm hồn của họ, nơi sinh ra các ý tưởng là nơi mà ông phải tiếp cận được.

“Năng lượng... mọi thứ đều là năng lượng. Bị lãng phí rất nhiều. Những ngọn núi... bên trong ngọn núi là sự thinh lặng; ở trung tâm là sự yên tĩnh. Nhưng bên ngoài là chỗ của những rắc rối. Con người chỉ có thể thấy mặt ngoài nhưng ông thì có thể đi đến chỗ sâu hơn nhiều. Ông phải thấy được ngọn núi lửa. Muốn vậy ông phải đi sâu vào bên trong.

“Khi ở trạng thái vật lý là tình trạng bất thường. Ở trạng thái tâm linh là bản chất tự nhiên của ông. Khi ông được gửi trở lại, điều đó cũng giống như đang được trở lại để phục vụ điều gì đó mà chúng ta không biết. Chúng ta sẽ dành nhiều thời gian hơn. Trong thế giới tâm linh ông phải chờ và rồi ông sẽ được đầu thai. Có trạng thái đầu thai. Đó là một chiều kích giống những chiều kích khác và ông gần như đã đạt đến trạng thái đó...”

Điều này khiến tôi bất ngờ. Làm thế nào mà tôi có thể tiếp cận với trạng thái tái sinh?“Tôi gần như đã đến trạng thái đó ư?” Tôi nghi ngờ hỏi.

“Đúng. Ông biết nhiều hơn hẳn so với bất kỳ ai khác. Ông đã hiểu biết nhiều hơn. Hãy kiên nhẫn với họ. Họ không có được tri thức mà ông có. Những linh hồn sẽ được gửi về để giúp ông. Nhưng ông đã đúng trong những gì ông đang làm... hãy tiếp tục. Nguồn năng lượng này không được lãng phí. Ông phải dứt bỏ sự sợ hãi. Đó sẽ là vũ khí vĩ đại nhất mà ông có...”

Bậc thầy tâm linh im lặng. Tôi suy ngẫm ý nghĩa của thông điệp khó tin này. Tôi biết là tôi đã thành công trong việc loại bỏ sự sợ hãi của Catherine nhưng thông điệp này có ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều. Nó không chỉ là sự xác nhận tính hiệu quả của thôi miên trong vai trò một công cụ trị liệu. Nó thậm chí còn rộng hơn việc quay lại kiếp sống trước, vốn khó có thể áp dụng cho toàn bộ dân số, từng người một. Không, tôi tin rằng nó liên quan đến nỗi sợ cái chết, đó là nỗi sợ nằm sâu trong lòng núi lửa. Nỗi sợ cái chết, ẩn giấu, nỗi sợ thường trực mà không có tiền bạc hay quyền lực nào có thể xóa tan – đó là cốt lõi. Nhưng nếu mọi người biết rằng “cuộc sống là vô tận; vì thế chúng ta không bao giờ chết; chúng ta không bao giờ thực sự được sinh ra,” thì nỗi sợ này sẽ được xóa bỏ. Nếu họ biết rằng họ đã sống vô số lần trước đây và cũng sẽ lại sống vô số lần nữa thì họ sẽ được an tâm biết bao. Nếu họ biết rằng các linh hồn đã vây quanh để giúp họ khi họ ở trạng thái vật lý và cả sau khi chết, ở trạng thái linh hồn họ cũng sẽ ở cùng những linh hồn này, kể cả những người yêu thương đã mất của họ thì họ sẽ thoải mái biết bao. Nếu họ biết rằng “thiên thần” hộ mệnh thực sự tồn tại thì họ còn cảm thấy an toàn xiết bao. Nếu họ biết rằng những hành động bạo lực và bất công chống lại người khác không hề mất đi mà phải được hoàn trả như vậy trong một kiếp sống khác thì họ sẽ bớt được bao nhiêu sự giận dữ và nỗi khát khao trả thù nuôi giữ trong lòng. Và nếu thật sự “nhờ tri thức mà chúng ta đến gần với Thượng đế,” việc sở hữu vật chất hay quyền lực vốn là những thứ mà bản thân chúng cũng có sự chấm dứt và không phải là phương tiện để tiếp cận Thượng đế thì có ích gì? Tham lợi hay tham quyền chẳng có chút giá trị nào.

Nhưng làm thế nào đưa được tri thức này đến với mọi người? Hầu hết mọi người đều cầu kinh trong nhà thờ, đền miếu, nhà nguyện hay chùa của riêng họ, những bài kinh tuyên bố về sự bất tử của linh hồn. Tuy nhiên sau những buổi lễ, họ quay lại với thói thường cạnh tranh của mình, thực hành tính tham lam, bất lương và ích kỷ. Những đặc điểm này cản trở sự tiến bộ của linh hồn. Vì thế, nếu đức tin chưa đủ thì có lẽ khoa học sẽ hỗ trợ thêm. Có lẽ những trải nghiệm như của Catherine và của tôi cần phải được nghiên cứu, phân tích và báo cáo theo một phương pháp độc lập, khoa học do những người được đào tạo về khoa học hành vi và vật lý thực hiện. Tuy vậy, vào thời điểm này, viết một báo cáo khoa học hay một cuốn sách là điều viển vông nhất trong suy nghĩ của tôi, một khả năng xa vời và bất khả nhất. Tôi băn khoăn về những tâm linh được gửi về để giúp đỡ tôi. Giúp tôi làm việc gì?

Catherine bị kích động và bắt đầu thì thào. “Có ai đó tên Gideon, ai đó tên Gideon... Gideon. Ông ấy đang tìm cách nói với tôi.”

“Ông ấy chỉ xoay quanh. Ông ấy không ngưng. Ông ấy là một trong những người hộ mệnh... điều gì đó. Nhưng hiện ông ấy đang đùa với tôi.”

“Có phải ông ấy là một trong những người hộ mệnh của cô không?”

“Đúng, nhưng ông ấy đang đùa... ông ấy chỉ nhảy quanh. Tôi nghĩ là ông ấy muốn tôi biết rằng ông ấy luôn ở quanh tôi... mọi nơi.”

“Gideon?” tôi lập lại.

“Ông ấy ở đó.”

“Điều ấy có làm cô cảm thấy an tâm hơn không?”

“Có. Ông ấy sẽ quay lại khi tôi cần.”

“Tốt. Có những linh hồn ở quanh chúng ta không?”

Cô trả lời bằng một giọng thì thầm, từ phần tư duy siêu thức. “Ồ, có... nhiều linh hồn. Họ chỉ đến khi họ muốn. Họ đến... khi họ muốn. Tất cả chúng ta đều là linh hồn. Nhưng những người khác... vài người ở trạng thái vật lý và những người khác ở trong thời kỳ chuyển kiếp. Và một số người khác là thần hộ mệnh. Nhưng tất cả chúng ta sẽ đến đó. Chúng ta cũng là thần hộ mệnh.”

“Tại sao chúng ta phải quay lại để học? Tại sao chúng ta không thể học khi ở trạng thái linh hồn?”

“Có những cấp học khác nhau và chúng ta phải học một số cấp khi là người trần mắt thịt. Chúng ta phải cảm nhận được nỗi đau. Khi ông ở trạng thái linh hồn thì không có cảm giác đau. Đó là giai đoạn chuyển kiếp. Linh hồn ông đang đầu thai. Khi ở trạng thái vật lý có thân xác thì ông có thể cảm nhận nỗi đau; ông có thể bị thương. Ở trạng thái tâm linh ông không cảm nhận được. Chỉ có niềm hạnh phúc, cảm giác lành mạnh. Nhưng đó là thời gian chuyển kiếp của... chúng ta. Sự tương tác giữa những người ở trạng thái linh hồn khác hẳn. Khi ở trạng thái vật lý... ông có thể trải nghiệm được những mối quan hệ.”

“Tôi hiểu. Sẽ ổn thôi.” Cô ấy lại im lặng. Nhiều phút trôi qua.

“Tôi thấy một cỗ xe,” cô bắt đầu, “cỗ xe màu xanh dương.”

“Một chiếc xe nôi à?”

“Không, cỗ xe mà ta phải thắng ngựa vào… một vài thứ xanh dương! Diềm trang trí xanh dương trên nóc xe, mặt ngoài xanh dương…”

“Có những con ngựa kéo xe không?”

“Nó có những chiếc bánh xe lớn. Tôi không thấy ai ở trong xe mà chỉ có hai con ngựa được thắng vào đó… một con xám và một con nâu. Con màu xám tên là Táo (Apple) vì nó thích táo. Con kia tên là Công tước (Duke). Chúng rất đẹp. Chúng không cắn người. Chân chúng to… chân to.”

“Có cả con ngựa trung bình chứ? Một con ngựa khác?”

“Không. Chúng rất đẹp.”

“Cô có ở đó không?”

“Có. Tôi có thể thấy mũi của nó. Nó lớn hơn tôi nhiều lắm.”

“Cô có đi xe đó không?” Dựa vào cách trả lời tôi biết cô ấy là một đứa bé.

“Có những con ngựa. Cũng có một bé trai ở đó.”

“Cô mấy tuổi?”

“Rất bé. Tôi không biết. Chắc tôi còn chưa biết đếm.”

“Cô có biết đứa bé trai đó không? Bạn cô à? Hay anh trai cô?”

“Cậu ấy là hàng xóm. Cậu ấy ở đây để… dự tiệc. Họ đang tổ chức… lễ cưới hay gì đó.”

“Cô có biết ai sẽ thành hôn không?”

“Không. Chúng tôi được dặn là không được để bị bẩn. Tóc tôi nâu… Những đôi giày có nút ở một phía suốt hết chiều cao.”

“Đó có phải là áo quần dự tiệc của cô không? Y phục đẹp chứ?”

“Đó là y phục trắng… một kiểu y phục trắng với… sọc chạy ngang qua và được cột ở phía sau lưng.”

“Nhà cô có gần đó không?”

“Đó là một ngôi nhà lớn,” đứa bé trả lời.

“Cô sống ở đó à?”

“Vâng.”

“Tốt. Giờ thì cô hãy nhìn vào nhà; được chứ. Đây là một ngày quan trọng. Những người khác cũng ăn mặc đẹp, mặc những bộ y phục đặc biệt.”

“Họ đang nấu ăn, rất nhiều thức ăn.”

“Cô có ngửi thấy không?”

“Có. Họ đang làm vài loại bánh mì. Bánh mì… thịt…. Chúng tôi được bảo là hãy đi ra ngoài.” Tôi thấy thú vị với điều này. Tôi bảo với cô là mọi chuyện sẽ ổn nếu đi vào nhà, để rồi cô ấy được bảo là phải đi ra ngoài trở lại.

“Họ có gọi tên cô không?”

“… Mandy… Mandy và Edward.”

“Tên của cậu bé phải không?”

“Vâng.”

“Họ không cho phép cô ở trong nhà à?”

“Không, họ rất bận rộn.”

“Cô cảm thấy chuyện đó như thế nào?”

“Chúng tôi không quan tâm. Nhưng thật khó để giữ mọi thứ sạch sẽ. Chúng tôi không thể làm bất cứ chuyện gì.”

“Cô có dự tiệc cưới không? Chắc vào cuối ngày hả?”

“Có… tôi gặp nhiều người. Căn phòng rất đông. Trời nóng, một ngày nóng bức. Có một vị cha xứ ở đó; cha xứ ở đó… đội một chiếc mũ lạ mắt, một chiếc mũ lớn… màu đen. Nó che hết mặt ông ấy… rất xa.”

“Đây có phải là thời gian hạnh phúc của gia đình cô không?”

“Vâng.”

“Cô có biết ai sẽ kết hôn không?”

“Chính là chị tôi.”

“Cô ấy lớn hơn cô nhiều phải không?”

“Vâng.”

“Cô ấy đẹp không?”

“Đẹp. Tóc chị ấy tết rất nhiều hoa.”

“Hãy nhìn chị ấy thật kỹ. Cô có biết chị ấy không? Hãy nhìn mắt, miệng của chị ấy….”

“Vâng. Tôi nghĩ chị ấy là Becky… nhưng nhỏ hơn, nhỏ hơn nhiều.” Becky là bạn và đồng nghiệp của Catherine. Họ thân thiết nhưng Catherine thường bực tức vì thái độ phê phán của Becky cũng như sự can thiệp của cô ấy vào cuộc sống và quyết định của Catherine. Dù gì chăng nữa thì cô ấy chỉ là một người bạn, không phải người thân. Nhưng có lẽ giờ đây sự phân biệt này không còn rõ ràng vậy nữa. “Chị ấy… chị ấy yêu tôi… và tôi có thể đứng gần mặt trước ngôi nhà vì chị đang ở đó.”

“Tốt. Hãy nhìn quanh. Bố mẹ cô có ở đó không?”

“Có.”

“Họ có yêu cô nhiều không?”

“Có.”

“Tốt lắm. Hãy nhìn kỹ họ. Trước tiên là mẹ cô. Xem thử cô có nhớ ra bà ấy không. Hãy nhìn mặt bà ấy.”

Catherine thở sâu vài lần. “Tôi không biết bà ấy.”

“Hãy nhìn cha cô. Nhìn kỹ ông ấy. Hãy nhìn vẻ mặt, đôi mắt... cả miệng của ông ấy. Cô biết ông ấy không?”

“Ông ấy là Stuart,” cô nhanh chóng trả lời. Như vậy, Stuart lại xuất hiện lần nữa. Điều này đáng để tìm hiểu kỹ hơn.

“Mối quan hệ giữa cô và ông ấy như thế nào?”

“Tôi rất yêu ông ấy… ông ấy rất tốt đối với tôi. Nhưng ông ấy nghĩ tôi là sự phiền toái. Ông ấy cho rằng trẻ con là những phiền toái.”

“Ông ấy quá nghiêm khắc phải không?”

“Không, ông ấy thích vui đùa với chúng tôi. Nhưng chúng tôi thường hỏi quá nhiều. Dù vậy ông ấy rất tốt với chúng tôi trừ khi chúng tôi hỏi quá nhiều.”

“Chuyện đó đôi lúc làm ông ấy bực mình phải không?”

“Đúng vậy, chúng tôi phải học từ thầy giáo chứ không phải từ ông ấy. Đó là lý do tại sao chúng tôi phải đến trường… để học.”

“Nghe như ý của ông ấy vậy. Có phải ông ấy nói với cô như thế không?”

“Vâng, ông ấy có nhiều thứ quan trọng hơn để làm. Ông ấy phải điều hành nông trại.”

“Nông trại lớn phải không?”

“Vâng.”

“Cô có biết nó ở đâu không?”

“Không.”

“Họ có bao giờ nhắc đến thành phố hay tên nước không? Tên của thành phố?”

Cô tạm ngưng, lắng nghe cẩn thận. “Tôi không nghe điều đó.” Cô lại im lặng.

“Được rồi, cô có muốn khám phá thêm kiếp sống này không? Hãy tiến nhanh về thời gian hay như vậy—”

Cô ấy cắt ngang lời tôi. “Vậy là đủ rồi.”

Trong suốt quá trình làm việc với Catherine, tôi đã rất ngại ngần thảo luận về những tiết lộ của cô ấy với những nhà chuyên môn khác. Thật sự, ngoài Carole và một vài người “an toàn”, tôi hoàn toàn không chia sẻ thông tin đặc biệt này với ai khác. Tôi biết tri thức từ những buổi trị liệu của mình vừa đúng vừa cực kỳ quan trọng nhưng lo lắng về những phản ứng của đồng nghiệp chuyên môn cũng như khoa học đã khiến tôi im lặng. Tôi vẫn còn lo lắng cho danh tiếng, nghề nghiệp và ý nghĩ của người khác về mình.

Chủ nghĩa hoài nghi của cá nhân tôi, hàng tuần lại càng bị xói mòn qua những bằng chứng từ miệng cô ấy. Tôi thường nghe lại băng cát-xét và trải nghiệm lại những phiên trị liệu với mọi kịch tính và sự thân thuộc của chúng. Tuy nhiên, những người khác sẽ phải tin vào những trải nghiệm dù mạnh mẽ của tôi nhưng vẫn không phải của họ. Tôi cảm thấy phải có nhiệm vụ thu thập thêm nhiều dữ liệu hơn nữa.

Khi tôi dần chấp nhận và tin vào những thông điệp này, cuộc sống của tôi trở nên giản dị hơn và cũng thỏa mãn hơn. Không cần phải đóng trò, giả dối, diễn cho tròn vai hay không phải là chính mình. Những mối quan hệ trở nên thành thật và thẳng thắn hơn. Cuộc sống gia đình ít rắc rối và nhẹ nhàng hơn. Sự ngại ngần chia sẻ những điều thông thái mà tôi được ban tặng thông qua Catherine bắt đầu biến mất. Đáng ngạc nghiên là hầu hết mọi người hết sức quan tâm và muốn tìm hiểu nhiều hơn. Nhiều người kể cho tôi nghe những trải nghiệm hết sức riêng tư của họ về những sự kiện cận tâm lý(1) như là khả năng ngoại cảm, quen thuộc dù chưa từng gặp(2), xuất hồn(3), mơ về kiếp trước hay những hiện tượng khác. Nhiều người còn chưa bao giờ kể cho chồng hay vợ họ về những trải nghiệm đó. Mọi người hầu như đều e ngại giống nhau là nếu chia sẻ những trải nghiệm này thì người khác, thậm chí là những người thân trong gia đình và bác sỹ trị liệu sẽ nghĩ họ bất thường hay kỳ quặc. Tuy nhiên, những hiện tượng cận tâm lý này khá phổ biến, thường xảy ra nhiều hơn chúng ta lầm tưởng. Chỉ có điều những hiện tượng siêu linh này thường bị ngại để kể cho người khác khiến chúng tưởng như hiếm hoi. Và những người có chuyên môn nghiệp vụ càng cao lại càng ngại ngần chia sẻ nhất.

Chủ tịch đáng kính một khoa trị liệu lớn tại bệnh viện của tôi là người được cả thế giới khâm phục về chuyên môn. Ông trò chuyện với người cha đã qua đời của mình, người đã nhiều lần bảo vệ ông khỏi những nguy hiểm nghiêm trọng. Một vị giáo sư khác có những giấc mơ mang lại những bước còn thiếu hay những giải pháp cho những thí nghiệm nghiên cứu phức tạp của ông. Những giấc mơ này luôn đúng. Một bác sỹ nổi tiếng khác thường biết ai gọi điện thoại cho mình trước khi nhấc ống nghe để trả lời. Vợ của chủ tịch ngành tâm thần học tại một đại học trung tây có bằng tiến sỹ (Ph.D.) tâm lý. Các dự án nghiên cứu của bà luôn được hoạch định và thực thi cẩn trọng. Bà chưa từng cho ai biết rằng khi lần đầu thăm viếng Rome, bà đi lại khắp thành phố này như thể có một bản đồ đã được in sâu trong trí nhớ của mình. Bà biết chính xác những gì sẽ có ở góc đường kế tiếp. Dù bà chưa từng đến Italia trước đây và cũng không biết tiếng Ý nhưng người Ý thường nói với bà bằng tiếng Ý, thường xuyên nhầm bà với người bản xứ. Bà phải đấu tranh với chính mình để chấp nhận trải nghiệm ở Rome.

Tôi hiểu lý do những nhà chuyên môn được đào tạo cao cấp này giữ bí mật của mình. Tôi là một trong số họ. Chúng tôi không thể phủ nhận trải nghiệm và cảm giác của chính mình. Tuy nhiên, kiến thức chúng tôi được đào tạo về nhiều phương diện lại trái ngược hoàn toàn với thông tin, trải nghiệm và niềm tin mà chúng tôi nhận được. Vì thế chúng tôi giữ im lặng.