Ác Quỷ Nam Kinh

Chương 56

Khi tiếng bước chân bắt đầu vang lên đều đặn từ phía cầu thang, tôi có thể chỉ cần im lặng. Tôi có thể lặng lẽ đi về phòng của mình, trèo qua cửa sổ rồi biến mất trong màn tuyết dày đặc mà không bao giờ biết được vật gì nằm bên trong chiếc túi nylon đó. Nhưng tôi đã không làm thế. Tôi nhào tới gõ cửa phòng Jason và kêu lên: “Jason, Jason, đi mau!

Khi cái bóng gớm ghiếc của mụ Y Tá xuất hiện trong bóng tối lờ mờ phía đầu cầu thang thì tôi lao như tên bắn dọc theo hành lang về phía cầu thang dẫn xuống vườn, vừa chạy thình thịch vừa hét gọi Jason giống một người trong cơn hưng phấn hơn là đang trong nỗi sợ hãi. “Jason!” Rồi tôi lao xuống cầu thang, vừa trượt vừa lăn lông lốc xuống phía dưới, đâm sầm vào tấm chắn cửa trước khi chui được ra bên ngoài trời tuyết.

Khi đã ra được ngoài vườn, tôi dừng lại đúng một giây, thở hổn hển.

Cả khu vườn tĩnh lặng. Tôi nhìn xuyên qua những tán cây phía gần cổng ra vào rồi quay nhìn lại chiếc túi nylon đang treo lơ lửng, cách tôi chỉ vài mét về bên trái, ngay phía trên hòn đá đánh dấu khu vực cấm xâm phạm. Tôi hết nhìn cánh cổng, nhìn chiếc túi nylon lại đưa mắt lên phía hành lang trên gác. Một ánh đèn lóe sáng, xoẹt ngang qua khu vườn.

Phải hành động thôi...

Tôi bắt đầu chuyển động, không đi dưới giàn cây đậu tía rậm rịt mà hướng về phía chiếc túi, cách xa cánh cổng, di chuyển như một con cua giữa những bụi cây thấp và bám sát vào tường, nơi bóng tối phủ dày nhất. Những cành cây trên cao rung rinh, rũ tuyết ra khắp nơi. Bóng của chiếc túi đu đưa trên đầu tôi. Khi đã chui hẳn vào bóng tối và đám cây bụi trở nên dày đặc không thể đi xuyên qua nữa thì tôi ngồi sụp xuống, thở hổn hển, mạch máu rần rật hai bên thái dương.

Chiếc túi đong đưa một cách biếng nhác trên đầu tôi và ở phía trên nó, những ô kính cửa sổ bàng bạc trước cửa phòng Jason phản chiếu bóng của cây cối và những bông tuyết đang xoay tít. Một vài giây im lặng trôi qua, rồi có cái gì đó trong ngôi nhà bị đập vỡ nghe rất chói tai, không biết là một cánh cửa bay ra khỏi bản lề hay đồ đạc bị hất tung, và sau đó là một âm thanh mà cả đời tôi sẽ không bao giờ quên. Đó là thứ âm thanh đôi khi những con chuột cống trong vườn vẫn tru lên vào giữa đêm khi bị bọn mèo xé xác. Nó quất ngang ngôi nhà như một lằn roi. Jason đang la hét, một thứ âm thanh khủng khiếp, xuyên thấu, âm vang khắp khu vườn và đâm thẳng vào tim tôi. Tôi lấy hai tay bịt tai lại, rùng mình ghê sợ không thể tiếp tục nghe chúng. Chúa ơi! Chúa ơi! Tôi phải há miệng thật to để nuốt không khí vào đầy phổi vì lần đầu tiên trong đời tôi nghĩ mình sẽ ngất.

Chiếc túi trên cành cây khẽ lay động trước một cơn gió nhẹ, đám tuyết bám xung quanh bay ra lất phất. Tôi nhìn lên chiếc túi, mắt nhòe đi vì sợ hãi. Trong chiếc túi có một vật gì đó, một vật gì đó được gói trong giấy. Bây giờ tôi đã có thể nhìn thấy nó một cách rõ ràng. Tiếng la hét của Jason lớn dần, âm vang trong bóng đêm, đập vào những bức tường. Tôi không có nhiều thời gian, phải hành động ngay lúc này. Phải tập trung, tập trung. Tôi kiễng chân, túm lấy một cành cây kéo nó xuống, những ngón tay lạnh giá chạm vào chiếc túi, cả người tôi run bần bật, mồ hôi túa ra. Một mẩu băng rơi xuống, chiếc túi khẽ kêu răng rắc, và trong một tích tắc tôi bỗng rụt tay lại theo bản năng, sững sờ vì không tin là mình vừa chạm vào nó. Chiếc túi khẽ đong đưa. Tôi hít một hơi dài rồi thò tay ra túm lấy chiếc túi, vừa đúng lúc Jason ngừng la hét và ngôi nhà trở lại yên ắng.

Tôi giật mạnh chiếc túi nhiều lần cho tới khi nó tuột ra khỏi cành cây. Được giải thoát, cành cây bật ngược trở lại, rung rinh một lúc, hất một đống băng tuyết xuống đầu tôi. Tôi lại lẩn vào bóng tối, len giữa những bụi cây, tay nắm chặt chiếc túi. Các người có nghe thấy tôi không? Tôi thầm nghĩ, ngước nhìn lên hành lang phía trên và tự hỏi không hiểu mụ ta đang ở đâu, tại sao ngôi nhà lại đột nhiên trở nên im ắng thế này? Jason, tại sao lại trở nên im lặng thế? Anh im lặng vì mụ ta đã dừng lại? Vì anh đã nói cho mụ ta biết phải đi tìm ở đâu?

Một cánh cửa sổ mở tung. Cái dáng nửa người nửa ngựa của mụ Y Tá xuất hiện trong hành lang, khuôn mặt lờ mờ qua những tán lá. Nhìn cái cách mụ ta đứng im, đầy chủ ý thì có thể đoán được rằng mụ ta đang nghĩ tới khu vườn, hay nghĩ tới những tiếng động tôi đã gây ra khi chạy bổ xuống cầu thang. Hoặc có thể mụ ta đang quan sát đám cây cối, xem chiếc túi có thể mắc vào đâu. Tôi quay đầu lại nhìn bóng cành cây ban nãy vươn dài tới tận Tòa nhà Muối và hóa thành những vệt màu trắng nhảy nhót trên tường. Mụ Y Tá thò mũi ra ngoài để đánh hơi, trong bóng tối đôi mắt lòa của mụ chỉ còn là hai chấm đen lờ mờ. Tôi thụt sâu vào trong bụi cây, cố tóm lấy vật gì chắc chắn để dựa, vô tình bẻ gẫy mấy cành cây nhỏ kiến chúng kêu răng rắc.

Mụ Y Tá quay vào, khụt khịt mũi và chậm chạp bước dọc theo hành lang, vừa đi vừa gõ tay lên các bậu cửa sổ. Mụ ta đang tiến về phía cầu thang dẫn ra vườn. Một bóng người thứ hai đi theo mụ, tên chimpira. Ngay cạnh chân tôi, một viên đá lát đường bị lún xuống đất. Tôi điên cuồng cào xới tới bật máu tay để lôi nó lên, giữ nó trước ngực cùng với chiếc túi. Tôi cố gắng hình dung ra bức tranh toàn cảnh của khu vườn xung quanh tôi. Kể cả khi tôi băng qua được đám cành cây xoắn xít kia thì cũng mất khoảng mười lăm giây để băng qua khu vườn trống trước khi ra tới cổng. Ở đây sẽ an toàn hơn vì dấu chân của tôi không bị lộ giữa đám cây bụi này và nếu…

Tôi nín thở. Chúng đã tìm thấy cái cầu thang. Tôi nghe thấy tiếng bước chân vang lên trên các bậc thang. Chúng đang tới tìm mình, nghĩ tới đây, toàn bộ xương cốt trong người tôi như muốn rủn ra. Mình là người kế tiếp. Rồi tôi nghe thấy tiếng cửa bị kéo ra, và trước khi tôi có thể trườn đi chỗ khác thì cái bóng đen sẫm của mụ Y Tá xuất hiện thấp thoáng sau những cành cây đóng băng lóng lánh. Mụ ta hơi cúi người xuống để chui vào con đường chính dẫn ra vườn dưới giàn cây đậu tía rậm rạp, bước đi rất nhanh và nhẹ nhàng như thể mụ ta đang chạy trên những con đường tàng hình. Cuối cùng mụ ta xuất hiện bên ngoài khu vườn đá phủ đầy tuyết rồi quay đầu nhìn xung quanh giống như một con ngựa cái đang đánh hơi. Hơi thở mụ ta phả ra trắng xóa cứ như mụ đang dùng một loại công lực để phun ra chúng.

Tôi không dám thở. Mụ ta sẽ đánh hơi ra ngay nếu tôi thở. Mụ ta đang tập trung cao độ tới mức có thể cảm nhận được tóc tôi đang dựng ngược lên, sự co dãn của các động mạch trong người tôi và thậm chí cả những suy nghĩ đang náo loạn trong đầu tôi. Tên chimpira lúc này mới xuất hiện bên ngưỡng cửa, nhìn theo mụ Y Tá. Mụ ta đang nhìn về phía tôi, quan sát kỹ đám cây cối trước khi chuyển hướng sang phía đối diện, hướng cánh cổng. Sau một phút do dự, mụ ta tiếp tục đi quanh khu vườn, thỉnh thoảng lại dừng lại nhìn ngó xung quanh một cách có chủ ý. Rồi mụ ta quay lại dưới giàn đậu tía và mất hút cho tới khi tôi nghe thấy tiếng mụ ta kiểm tra cánh cổng. Tôi nghe thấy cánh cổng kẽo kẹt và từ từ mở ra. Lúc này tuyết khá quang nên tôi có thể nhìn thấy mụ ta đứng đó vẻ trầm ngâm, tay đặt lên trên chiếc chốt cửa.

“Cái gì vậy?” Tên chimpira kêu lên, trong giọng nói dường như thoáng chút bồn chồn lo lắng. “Bà có nhìn thấy gì không?”

Mụ Y Tá không trả lời. Mụ ta sờ tay lên chiếc then cửa rồi nhấc nó lên mũi ngửi, miệng hơi hé mở như để hít cái mùi đó vào trong. Mụ ta thò đầu ra ngoài cổng và nhìn ra phố, tôi cảm thấy như bị sét đánh trúng tim: không có dấu vết, trên tuyết không có dấu vết gì. Mụ ta sẽ biết là tôi vẫn chưa đi khỏi.

Tôi nhét chiếc túi nylon vào bên trong áo jacket, kéo khóa lên, nhét viên đá vào trong túi và lặng lẽ đi men theo tường như một cái bóng lẫn giữa các bóng cây khác tới một cửa sổ tầng trệt nơi tôi nhớ rằng lớp lưới bảo vệ đã bị bung ra khỏi bản lề. Đúng như tôi nghĩ, cửa sổ hé mở, bên trong là lớp kính phủ đầy rêu. Tôi nghiêng người về phía trước, nắm chặt khung cửa để giữ thăng bằng và đu người lên khỏi mặt đất trắng xóa tuyết cho tới khi chân tôi bám vào được một cành cây ngả sát tường. Tôi đứng lên trên cành cây đó, người run lẩy bẩy, hơi thở nóng hổi làm mờ lớp kính trên cửa sổ trước khi phả lại vào mặt tôi. Khi đưa tay chùi mặt, tôi giật mình khi thấy khuôn mặt mình xuất hiện trên lớp kính và suýt nữa thì bước hụt ra sau. Phải từ từ, từ từ, tập trung. Tôi quay lại và nhìn qua đám cây bụi. Mụ ta vẫn không cử động, đứng quay lưng về phía tôi và đang quan sát đường phố một cách từ tốn. Gã chimpira đã bước qua ngưỡng cửa ra ngoài và nhìn theo mụ Y Tá, lưng hắn xoay lại phía tôi.

Tôi kéo chiếc cửa sổ nhích ra từng chút một rồi nâng tấm kính lên để nó không kêu cót két và đúng vào lúc đó, cứ như thể nghe thấy tiếng tôi, mụ ta rời mắt khỏi cánh cổng và nhìn về phía con đường lúc trước mụ ta đi qua, chậm rãi quay đầu.

Tôi không đợi nữa. Tôi thò hai chân xuyên qua khe hở rồi đu cả người vào theo, rơi bịch xuống sàn nhà trong tư thế ngồi xổm. Tôi ngồi im trong bóng tối, choáng váng vì tiếng động mà cú nhảy gây ra, hai tay chống lên sàn nhà đợi cho đến khi tiếng động đó biến mất trong các ngóc ngách của những căn phòng cũ kỹ quanh năm cửa đóng kín mít này. Tôi nghe thấy đâu đó trong bóng tối dày đặc phía bên trái mình tiếng chuột chạy ríu rít. Tôi thò tay vào trong túi bật chiếc đèn pin rồi chụm tay che nó lại chỉ để hở một quầng sáng nhỏ chiếu lên sàn nhà. Trong ánh sáng yếu ớt xung quanh tôi, căn phòng hiện ra nhỏ hẹp, sàn nhà lát đá lạnh ngắt, rác rưởi chất đống khắp nơi. Khoảng vài mét ở đằng trước là một khung cửa trống. Ánh đèn của tôi chiếu thẳng ra tới đó không gặp bất cứ trở ngại nào và tiếp tục chạy dọc theo chiều sâu của ngôi nhà. Tôi tắt đèn rồi bò trên sàn bằng cả bốn chi, xuyên qua đám rác rưởi và mạng nhện tới chỗ khung cửa bỏ trống trước khi tiếp tục trườn sâu hơn về phía cuối ngôi nhà, bò qua không biết bao nhiêu phòng cho tới khi chắc rằng bọn chúng không thể nào tìm ra mình được nữa.

Tôi dừng bước, nhìn lại con đường mình vừa đi qua. Tiếng động duy nhất mà tôi nghe thấy là tiếng tim mình đập thình thịch. Các người có nhìn thấy ta không? Các người có nhìn thấy ta không? Đáp lại tôi chỉ có sự im lặng. Đâu đó trong bóng tối vang lên tiếng nước nhỏ giọt đều đều và một thứ mùi rất nặng xộc vào mũi tôi, giống như mùi than bùn, mùi khoáng chất của những bãi nước tù úng.

Tôi vừa bò về phía đó vừa thở hổn hển cho tới khi tôi không còn nghe thấy bất cứ âm thanh nào nữa và dường như một thế kỷ đã trôi qua thì tôi mới dám bật đèn pin lên. Ánh sáng từ ngọn đèn nhảy nhót trên đống đồ đạc chất cao, những thanh gỗ mục gãy trên xà nhà và một mảng vôi vữa, sắt thép lồ lộ. Tôi có thể trốn ở đây suốt đời nếu cần thiết. Tôi lập cập lôi chiếc túi nylon ra khỏi áo jacket. Tôi cứ tưởng tượng ra đó là một vật rắn chắc và xỉn màu, giống như đất sét nhưng hóa ra nó lại nhẹ tênh, như thể nó được làm từ xương khô hay gỗ bông bấc. Tôi thò tay vào trong và chạm phải một vật được gói kỹ bằng một loại giấy mềm và nhẵn, y như giấy gói của hàng thịt, dày và bóng. Máu không thấm qua được bề mặt nhẵn thín của loại giấy này. Tôi phải đứng dựa vào tường một lúc, há miệng ra thở vì cái ý nghĩ vừa xuất hiện trong đầu tôi về cái vật tôi đang giữ thật quá sức chịu đựng. Tôi cậy lớp giấy bọc ở một đầu, giữ lấy đầu kia rồi kéo vật đó ra vừa đúng lúc từ sau lưng tôi, ở tít đằng xa, vang lên một tiếng động mà tôi không thể nào nhầm lẫn được. Tiếng kim loại rít lên. Ai đó đang cố mở cái cửa sổ mà tôi đã chui qua lúc nãy.