Ác Quỷ Nam Kinh

Chương 42

Tương truyền hơn hai nghìn năm trước có một nàng công chúa xinh đẹp tên là Diệu Thiện, con gái út của Diệu Trang Vương. Nàng không muốn lấy chồng, làm trái với ý nguyện của vua cha khiến ngài nổi giận bắt nàng đi đày tại một ngọn núi có tên Hương Sơn hay còn gọi là núi Hương. Ở đây, để sống qua ngày nàng phải ăn các loại hoa trái và uống nước từ những dòng suối ngát hương thơm. Không lâu sau, nhà vua ốm nặng. Ngài mắc một thứ bệnh ngoài da kỳ lạ, phải nằm liệt giường. Như các cô gái Trung Hoa hiếu thảo khác, ngay khi nghe được tin này, nàng Diệu Thiện đã không ngần ngại móc đôi mắt của mình ra và sai người hầu cắt cụt hai cánh tay để gửi về cung điện làm thuốc chữa bệnh cho vua cha. Nhờ thứ thuốc đó, nhà vua đã hồi phục.

Diệu Thiện chính là một mắt xích đẹp đẽ, một sợi chỉ thêu hoàn hảo nhất trong tấm thảm mà tôi sắp gỡ tung ra.

Hai chị em người Nga nghĩ là tôi đang say hoặc không được khỏe. Trong lúc cuống quýt, cả ba chúng tôi chui đại vào chiếc taxi vừa dừng lại trước cửa căn hộ. Suốt trên đường về, tôi ngồi thụt vào trong góc, đầu cúi gằm, hai tay ôm mặt. “Đừng có mà nôn ra đấy, tôi ghét nhất là khi người ta nôn ra trước mặt mình.”

Trong nhà rất lạnh. Tôi cởi giày rồi đi về phòng. Tôi lôi tất cả đống tài liệu của mình xuống, tháo dây cho chúng bay lả tả khắp phòng như những bông tuyết. Một vài trang giấy nằm quay những khuôn mặt già nua lên trên như đang nhìn tôi. Tôi lấy tất cả đám sách vở của mình chặn thành một bức tường xung quanh đống tài liệu giống như một khu rào kín ở giữa phòng. Tôi bật lò sưởi điện, trùm áo khoác lên người rồi chui vào ngồi ngay chính giữa nhìn chằm chằm vào bức vẽ núi Tử Kim đang bốc cháy và những cột thống kê số xác chết chất thành cầu vắt qua kênh Giang Đông Môn. Ngày mai tôi sẽ quay trở lại chỗ của Fuyuki. Bạn luôn cảm nhận được khi nào bạn đang tiến gần tới sự thật, nó khiến không khí dường như nóng ran lên. Tôi đã quyết định. Tôi phải được chuẩn bị sẵn sàng.

Ai đó mở cửa trước ầm ĩ rồi loẹt xoẹt đi lên cầu thang. Chúng tôi đã bỏ lại Jason ở chỗ Fuyuki. Tôi thoáng nhìn thấy anh ta trong tiền sảnh mù mịt khói thuốc, đứng lặng lẽ giữa các nữ tiếp viên, chiếc túi quen thuộc đeo chéo trước ngực. Lúc đó, người gác cổng đang nháo nhác gọi taxi cho khách còn bốn nhân viên cấp cứu thì đang tìm cách lách qua đám đông để vào được bên trong, giơ những chiếc túi y tế ra trước mặt để lấy chỗ trong thang máy. Thế nhưng giữa cái đám hỗn độn ấy, Jason lại có cái vẻ gì đó hết sức bình tĩnh, mặt anh ta trông rất lạ, nước da tái mét, và khi mắt chúng tôi gặp nhau thì trong một thoáng ngắn ngủi, dường như anh ta đã không nhận ra tôi. Rồi anh ta lóng ngóng giơ hai tay lên vẫy và bắt đầu loay hoay tìm cách thoát ra khỏi đám đông. Tôi quay đi và chui vào chiếc taxi cùng hai chị em người Nga. Tôi có nghe thấy tiếng anh ta gọi giật phía sau nhưng khi anh ta thoát ra khỏi đám đông đó thì chiếc taxi đã lao đi mất.

Lúc này, tôi có thể nghe thấy tiếng bước chân nặng nề của anh ta đang di chuyển trong hành lang. Tôi nhảy bổ ra phía cửa nhưng không kịp. Trước khi tôi có thể chạm tay vào ổ khóa thì cánh cửa bật mở và anh ta xuất hiện dưới ánh sáng lờ mờ của hành lang. Anh ta thậm chí không thèm dừng lại ở phòng mình để cởi giày và cất túi mà tới thẳng phòng tôi. Mặt anh ta đầm đìa mồ hôi, trên cổ tay áo có mấy vết bẩn.

“Anh đây,” anh ta đặt tay lên ngực, có vẻ như đang say. “Là anh đây.”

“Tôi biết.”

Anh ta bật ra một tiếng cười khô khốc. “Em biết không? Anh không hề biết là em lại hoàn hảo đến vậy? Cho tới tối nay. Em đúng là một người hoàn hảo!” Anh ta lóng ngóng đưa tay lên chùi mặt rồi liếm môi và nhìn xuống chiếc áo sơ mi và chiếc váy nhung bó tôi đang mặc. Cả người anh ta có vẻ gì đó nhớp nhúa. Tôi ngửi thấy mùi thuốc lá, mùi mồ hôi và một thứ mùi gì đó giống như mùi nuớc bọt của một con vật. “Cô gái lập dị, anh xin ngả mũ trước em. Chúng ta xấu xa hệt như nhau. Bệnh hoạn y như nhau. Như những mảnh ghép của một trò chơi xếp hình, chúng ta đều có đúng cái mà người kia cần. Và anh,” anh ta giơ hai tay lên trời, “anh sẽ kể cho em một chuyện mà em sẽ rất thích.” Anh ta túm lấy vạt áo sơ mi của tôi. “Hãy cởi cái áo này ra và cho anh xem...”

“Đừng,” tôi đẩy tay anh ta ra. “Đừng đụng vào tôi.”

“Thôi nào...”

Không!

Anh ta có vẻ ngỡ ngàng, rõ ràng là sửng sốt trước phản ứng của tôi.

“Nghe này,” tôi nói, cổ họng như thắt lại, máu bắt đầu dồn lên mặt. “Nghe tôi nói này. Tôi có chuyện quan trọng muốn nói với anh. Anh đã sai khi nói rằng chúng ta giống nhau. Chúng ta không hề giống nhau. Hoàn toàn không.”

Anh ta phá ra cười, lắc đầu. “Ôi, thôi nào,” anh ta ngoắc ngón tay về phía tôi. “Đừng cố nói với anh là em không bệnh hoạn chút nào...”

Chúng ta không giống nhau,” tôi rít lên, “vì sự thiếu hiểu biết, Jason ạ, sự thiếu hiểu biết không đồng nghĩa với sự điên rồ. Chưa bao giờ.”

Anh ta nhìn tôi chằm chằm. Trên mặt anh ta xuất hiện những đốm nhỏ màu hồng, dấu hiệu của sự giận dữ. “Cô đang định cố tỏ ra là mình thông minh đấy hả?”

Sự thiếu hiểu biết,” tôi nhắc lại, cảm thấy mạch đập thình thịch hai bên thái dương, “không giống như sự điên rồ. Nó cũng không giống với sự bệnh hoạn, sự xấu xa hay bất cứ cái gì mà anh gán cho tôi. Có những người điên, có những người bệnh hoạn, xấu xa hay kỳ quái, hoặc bất cứ thứ gì mà anh nghĩ ra nhưng hãy nhớ rằng,” tôi dừng lại hít một hơi rất sâu trước khi nói tiếp, “những thứ đó không giống với sự thiếu hiểu biết.”

“Hiểu rồi,” anh ta nói và thở hắt ra. Mặt anh ta đỏ lựng và tôi chợt hình dung ra một Jason nhiều tuổi hơn trong tương lai, to béo, chậm chạp. Anh ta nghiêng đầu ra phía sau vẻ lưỡng lự rồi lại cúi về phía trước, cố tạo ra một khoảng cách lý tưởng giữa hai chúng tôi, nơi anh ta có thể quan sát được kỹ những mạch máu đang đập dồn trên cổ tôi. “Tôi hiểu rồi. Cô đột nhiên biến thành một con chó cái.” Anh ta đặt một chân lên trên ngưỡng cửa, gí sát mặt vào mặt tôi. “Mẹ kiếp, tôi đã quá kiên nhẫn với cô. Không phải thế sao? Dù một phần nào đó trong tôi luôn tự hỏi, Jason, thứ cặn bã nhà ngươi sao lại tốn quá nhiều thời gian cho con nhỏ ngu ngốc đó vậy? Thế nhưng, tất cả những gì tôi làm chỉ là kiên nhẫn. Vậy mà đổi lại, tôi được cái gì nào? Cô. Trở nên hết sức quái đản và đối xử với tôi một cách kỳ quặc.”

“Thì thế,” tôi trả lời một cách gay gắt, “hẳn là kết quả… của việc tôi... là một đứa quái dị.”

Anh ta định mở miệng nói gì đó xong lại thôi. “Chuyện này là gì vậy? Một trò đùa à?”

“Không. Đó không phải là một trò đùa.” Tôi thò tay ra kéo cửa lại. “Chúc ngủ ngon.”

“Đồ chó cái…” Anh ta gườm gườm nói, “đồ khốn kiếp...”

Tôi đẩy cánh cửa ra một chút để lấy đà đóng sập nó lại trước mũi anh ta khiến anh ta nhảy dựng ra phía đằng sau.

Chó chết!” Anh ta hét lên. Tôi đóng chặt cửa và khóa lại.

“Làm được đấy, đồ bẩn thỉu.” Anh ta đá vào cánh cửa. “Con ranh dở hơi!” Tôi nghe thấy tiếng anh ta đi tới đi lui trong hành lang, không biết phải làm gì với cơn thịnh nộ của mình. Tôi sợ anh ta sẽ đạp đổ cánh cửa hay lao vào đó với hai nắm đấm. Tôi châm một điếu thuốc rồi ngồi xuống giữa đống sách của mình, một tay ôm lấy đầu chờ đến khi anh ta bỏ cuộc.

Anh ta đá vào cánh cửa lần nữa, một cú tạm biệt. “Cô vừa phạm phải một sai lầm lớn, đồ đầu đất. Sai lầm lớn nhất đời cô. Cô sẽ phải hối hận cho tới khi xuống mồ.”

Rồi tôi nghe tiếng anh ta bỏ về phòng, vừa đi vừa cằn nhằn và đấm bùm bụp vào các cánh cửa sổ dọc hành lang.

Sau khi anh ta bỏ đi, ngôi nhà trở nên im lặng. Tôi ngồi im một chỗ, hút hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác, hít thật sâu khói thuốc vào trong phổi để lấy lại bình tĩnh. Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, khi đã trấn tĩnh trở lại, tôi đứng dậy.

Tôi đi lấy hộp bút vẽ và nhặt trên sàn một tờ giấy, vuốt cho nó phẳng ra. Tôi ngồi xổm giữa đống sách vở và tranh vẽ của mình, hai tay chạm vào hai mắt cá chân, nhìn lên bức hình Mickey Rourke đang chiếu sáng ngoài cửa sổ. Tôi đang cố gắng hình dung ra việc ăn thịt đồng loại thì như thế nào. Ở trường đại học tôi đã phải đọc rất nhiều loại sách và cái mớ kiến thức hỗn độn tích lũy trong nhiều năm đó giờ đang xáo trộn trong đầu tôi. Tôi cần phải tập trung cao độ để nhớ ra cái gì là cần thiết cho mình trong lúc này.

Một lúc sau tôi dụi điếu thuốc và bắt đầu pha màu, một hỗn hợp màu vàng son, màu hồng gỗ, và màu trắng kẽm. Tôi vẽ rất nhanh, để lớp màu vẽ chảy và đọng một cách tự nhiên. Chỉ có một lý do để ăn thịt người, tôi nghĩ, một lý do hợp lý. Một khuôn mặt từ từ hiện ra sau nhát vẽ của tôi, đôi gò má hốc hác, cổ giống như cây sậy, một thân hình da bọc xương tiều tụy, hai bàn tay nhọn hoắt tì trên nền đất lạnh ngắt. Một người đang chết đói.

Tôi biết thế nào là chết đói. Đó là một trong những bóng ma lạnh lùng, giống như bệnh dịch, đi vòng quanh trái đất theo bước chân của chiến tranh. Dưới thời Stalin ở Liên Xô có hai nạn đói lớn, hàng trăm người Nga đã phải ăn thịt người để sống sót. Hồi còn ở trường đại học tôi có tham dự bài giảng của một vị giáo sư, người đã tìm thấy trong các tài liệu cũ ở St. Petersburg những bằng chứng về việc người dân Leningrad đã phải ăn thịt người chết trong một lần cả thành phố bị bao vây thời Chiến tranh Thế giới II. Tôi tiếp tục vẽ trên giấy một đoạn xương khô dài, phía cuối mọc ra một bàn chân. Bạn hẳn phải rất đói và tuyệt vọng thì mới có thể ăn thịt đồng loại. Những cái tên khó nhớ khác lại lần lượt hiện ra trong đầu tôi, sự kiện đèo Donner, những cuộc thám hiểm của John Franklin, Nottingham Galley, Medusa và vụ rơi máy bay của đội bóng rugby Old Christan trên dãy núi Andes. Và người Trung Quốc có ý gì khi họ nói Dĩ tử nhi thực. “Chúng tôi đói tới mức có thể ăn thịt trẻ con?”

Tôi vẽ một chữ kanji cho từ đó.

Đói.

Tôi châm một điếu thuốc nữa và gãi đầu. Bạn sẽ không tưởng tượng được bạn có thể làm gì khi bị đói. Nhưng cũng còn những lý do khác, người ta có thể trở thành những kẻ ăn thịt người vì những nguyên nhân khác. Tôi đổi sang một chiếc cọ chuyên dùng cho thư pháp, nhúng nó vào nghiên mực rồi chậm rãi viết thêm một chữ kanji khác, giống như một con số chín với một cái phẩy nhẹ ở đuôi.

Năng lượng.

Ở trường đại học có một nghiên cứu sinh rất say mê với đề tài các bộ lạc chiến tranh ở châu Phi. Tôi nhớ anh ta đã rải tờ rơi khắp trường để kêu gọi mọi người tới tham dự cuộc nói chuyện của anh ta về cái gọi là Hiệp hội Người-Báo ở Sierra Lione và về lính đánh thuê trẻ em ở Poro, Liberia. Tôi không tham dự cuộc nói chuyện này nhưng tôi có nghe mọi người kể về nó: “Tin tôi đi, anh ta nói những chuyện kỳ quặc như họ xẻo thịt kẻ thù để ăn, và nếu đó chính là kẻ đã bại dưới tay họ, thì việc ăn thịt kẻ đó sẽ giúp họ trở nên mạnh hơn.” Một số nhân chứng còn nhắc đến việc tìm thấy trên đường phố Nam Kinh các thi thể đã bị mất các bộ phận như tim, gan. Người ta đồn rằng lính Nhật đã lấy đi những bộ phận này vì tin rằng chúng sẽ khiến họ mạnh mẽ hơn khi giao chiến.

Tôi nhìn xuống chữ “năng lượng” vừa mới vẽ rồi lại nhúng cọ vào mực viết thêm hai chữ nữa, chữ “cách thức” và chữ “của Trung Hoa”. Kampo. Y dược Trung Hoa.

Chữa bệnh.

Những thứ tôi đã đọc có thể giúp gì trong chuyện này? Tôi lôi đống sách y học mà tôi mua ở Kinokuniya và giở chúng ra trước mặt. Một tay thì giữ lấy những trang cần xem lại, một tay thì tiếp tục giở các cuốn sách khác, cây cọ vẽ ngậm ngang miệng. Ánh đèn từ bức quảng cáo Mickey Rourke chiếu thành những hình vuông màu vàng trên tấm thảm tatami.

Thật kỳ diệu. Tất cả đều được nhắc đến trong những cuốn sách này. Tôi đã đọc chúng suốt nhiều tuần lễ, đọc đi đọc lại mà vẫn không tìm thấy bất cứ cái gì hữu ích. Vậy mà, bây giờ, tôi đột nhiên thấy mọi thứ hết sức rõ ràng. Đầu tiên là câu chuyện về Diệu Trang Vương ăn mắt và tay của con gái. Vì sao? Để chữa bệnh. Sau đó tôi cũng tìm thấy trong một bản dịch về những đơn thuốc của thế kỷ XVI. Bản thảo cương mục, thành phần thuốc bao gồm ba mươi lăm vị khác nhau, lấy từ các bộ phận trên cơ thể người. Bánh mì nhúng máu người dùng để chữa bệnh viêm phổi và bất lực ở nam giới, mật ngâm rượu để chữa bệnh thấp khớp. Thịt của các tử tù bị hành quyết được dùng để chữa chứng biếng ăn. Tôi cũng tìm thấy những câu chuyện ăn thịt người rùng rợn ở thôn Lang Sói trong truyện Nhật ký của Lỗ Tấn và những ghi chép của ông về cái chết của một người bạn có tên là Từ Tích Lân khi bị lính canh của Ân Minh, tuần vũ tỉnh An Huy móc tim gan ra ăn. Trong một quyển sách viết về cách mạng văn hóa ở Trung Quốc cũng có nhắc đến một cách khá tỉ mỉ một tập tục cũ có tên gọi là koku thể hiện sự hiếu thảo của con cái khi tự nguyện lóc thịt để nấu canh cho cha mẹ ăn chữa bệnh.

Tôi nhặt ba bức thư pháp kanji gồm ba chữ đói, năng lượng và chữa bệnh mà tôi vừa vẽ và ghim chúng lên tường, ngay dưới chân trời của thành phố Tokyo, rồi nhìn chúng chăm chú. Lịch sử của Nhật Bản luôn có một mối liên hệ với Trung Quốc, biết bao nhiêu thứ đã được chuyển giao giữa hai nước, vậy tại sao cái này lại không? Nếu các bộ phận trên cơ thể con người có thể được sử dụng làm thuốc chữa bệnh ở Trung Quốc thì tại sao lại không được sử dụng ở Nhật? Tôi quay trở lại với quyển sách giáo khoa. Ắt hẳn phải có một cái gì đó. Tôi lờ mờ nhớ ra một chi tiết nào đó... Một chi tiết nào đó mà tôi đã từng đọc ở trường đại học.

Tôi lấy ra những tài liệu nghiên cứu về thời kỳ hậu chiến ở Nhật, trong đó có một số bản ghi chép về các phiên tòa chiến tranh ở Tokyo. Tôi vội châm một điếu thuốc và ngồi khoanh chân trên sàn đọc lướt qua chúng một lần nữa. Được khoảng hai phần ba chỗ tài liệu thì tôi phát hiện ra cái mình cần tìm: lời khai của một phụ nữ Nhật Bản phục vụ cho Đơn vị 731 tai tiếng trong thời gian chiến tranh. Tôi ngồi im trong ánh sáng lờ mờ, chân tay đột nhiên trở nên lạnh ngắt khi đọc tới chỗ: “Những tù nhân chiến tranh của quân đồng minh được đặt cho biệt hiệu Maruta (hay những kẻ đần độn) và là đối tượng để thực hiện các cuộc giải phẫu sống và các thí nghiệm trên con người.”

Bên cạnh là bức ảnh của người cho khẩu cung. Đó là một phụ nữ trẻ đẹp và tôi có thể hình dung ra sự im lặng tuyệt đối và rợn người tại phiên tòa, khi mọi người đều nín thở và bất động nghe người phụ nữ này kể lại một cách rõ ràng và rành mạch cái ngày cô ta ăn gan của một quân nhân Mỹ. “Vì sức khỏe của tôi.”

Tôi ngồi đó rất lâu, nhìn chằm chằm vào bức hình người phụ nữ ăn thịt người xinh đẹp đó. Vào năm 1944, ít nhất đã có một người ở Nhật Bản cho rằng việc ăn thịt người có thể có lợi cho sức khỏe. Đã đến lúc phải nghĩ tới Fuyuki một cách nghiêm túc hơn bao giờ hết.