Ác Quỷ Nam Kinh

Chương 40

Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937

Ba chúng tôi mang bánh bao về cho Thu Kim rồi mới đi. Chúng tôi đi qua các con phố còn đang ngái ngủ, nhìn những ngôi nhà cửa giả bịt kín xung quanh với đôi mắt cảnh giác. Nam Kinh, ngươi là một thành phố ma. Những cư dân của ngươi đâu hết cả rồi? Rúm ró trong im lặng, chui rúc trong những căn nhà khép chặt cửa? Hay trốn dưới các tầng hầm và chuồng nuôi gia súc? Tuyết vẫn rơi lặng lẽ trên vai chúng tôi, lên mũ và áo khoác, rơi xuống đường vào đúng bãi phân dê bên rãnh nước và biến thành màu vàng. Không một bóng người.

“Mọi người nhìn này!” Đi được khoảng mười phút thì chúng tôi đến được một con ngõ nhỏ thông ra đường Trung Ương. Thằng bé chỉ tay lên một dãy nhà ám khói. Chắc hẳn những ngôi nhà này chỉ vừa mới trải qua cơn hỏa hoạn, vì khói vẫn đang bốc lên nghi ngút. “Là hắn đấy. Tên diêm vương. Hắn luôn làm thế mỗi khi đi lùng sục.”

“Lùng sục?” Tôi và ông Lưu đưa mắt nhìn nhau.

“Lùng sục phụ nữ. Đó là thói quen của hắn.”

Chúng tôi vừa định mở miệng hỏi tiếp thì thằng bé đặt một ngón tay lên môi và ra hiệu cho chúng tôi im lặng. “Không phải lúc này.”

Thế rồi nó rón rén bước đi, dẫn chúng tôi đi xa hơn và cuối cùng dừng lại trước một nhà máy có cánh cổng đôi, mái tôn, cao như một tòa nhà hai tầng. Tôi đã đi ngang qua chỗ này tới hàng trăm lần mà chẳng thèm để ý xem đó là tòa nhà gì. Chúng tôi đứng tụm lại với nhau, giậm chân cho tuyết rơi xuống và vỗ hai tay vào nhau cho máu lưu thông trở lại, mắt vẫn nhìn xung quanh với vẻ đề phòng.

Thằng bé lại đặt tay lên môi. “Đây là nơi hắn sống,” nó thì thầm. “Đây là nhà của hắn.” Nó đẩy cánh cửa kêu két một tiếng. Bên trong tòa nhà rất lạnh, tôi chỉ thấy lờ mờ các thứ máy móc, những bức tường bê tông ẩm ướt, và một băng chuyền sản xuất. Một đống giỏ đan bằng vỏ cây sậy kiểu cổ chất đống cạnh tường.

“Cái gì thế này?” Ông Lưu hỏi khẽ và qua giọng nói của ông, tôi có thể thấy là cũng giống như tôi, ông không muốn đi vào bên trong. Cái không khí trong nhà máy này khiến tôi nhớ tới một trong những lò sát sinh ở ngoại ô. “Con đưa chúng ta tới đây làm gì?”

“Hai người muốn biết tại sao người phụ nữ đó lại la hét.”

Hai chúng tôi nhìn vào cánh cửa và do dự.

“Đừng lo.” Thằng bé nhìn thấy vẻ mặt của chúng tôi và nghiêng đầu về phía cả hai. “An toàn mà. Giờ này hắn không có ở đây.”

Thế rồi nó đẩy cánh cửa thêm chút nữa. Một tiếng rít ghê người vang lên khắp tòa nhà sâu hun hút rồi thằng bé bước vào và biến mất sau cánh cửa. Ông Lưu và tôi nhìn nhau. Mắt tôi mờ đi vì sợ, thật phi lí, tôi tự bảo mình, trên đời này làm gì có ma quỷ. Tuy nhiên, cũng phải mất một lúc lâu tôi mới gom đủ dũng khí để mở cửa và bước vào trong. Ông Lưu bước theo tôi, và chúng tôi dừng lại một lúc để cho mắt quen dần với bóng tối.

Đây hẳn là một nhà máy dệt. Tôi có thể nhìn thấy một cái bể lớn để luộc tằm, bốn năm cái máy dệt công nghiệp và hàng tá ống chỉ hình thoi. Thằng bé đang đứng ở góc phòng, bên cạnh một cánh cửa nhỏ, ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Chúng tôi đi tới chỗ nó, tiếng bước chân vang lên một cách lạc lõng và trống trải trong ngôi nhà có trần cao như nhà thờ này. Thằng bé đẩy cánh cửa rồi đứng im, tay vẫn đặt trên núm cửa, chỉ cho chúng tôi thấy một căn phòng, có lẽ trước đây là phòng của quản đốc. Chúng tôi bước tới sau lưng thằng bé. Tôi nhìn vào bên trong căn phòng và lập tức phải đưa tay lên che miệng và vịn vào bức tường bên cạnh, cố gắng giữ cho đầu gối không khuỵu xuống.

“Trời ơi, chuyện gì đã xảy ra ở đây vậy? Chuyện gì đã xảy ra ở đây?” Ông Lưu thì thào.