Ác Quỷ Nam Kinh

Chương 17

Jason nói ngôi nhà trước đây thuộc về mẹ của chủ nhà nhưng bà ta ốm rất nặng và có lẽ còn hơi bị điên nữa nên đã để tầng trệt ngôi nhà rơi vào tình trạng đổ nát, không thể ở được. Các cửa sổ chi chít muỗi và theo lời của Svetlana thì dưới đó còn có các bóng ma. Cô bảo người Nhật tin vào một sinh vật lạ, một loại yêu tinh có cánh gọi là ma núi Tengu, chuyên đi bắt cóc người và có thể bay dập dờn như con ngài. Svetlana thề là cô ấy đã từng nghe thấy tiếng sột soạt ở trong vườn và nhìn thấy vật gì đó đi xuyên qua các cây hồng đỏ. “Suỵt,” cô ấy nói, đột ngột dừng lại một cách đầy kịch tính giữa câu chuyện, đưa tay lên môi ra hiệu: “Mọi người có nghe thấy gì không? Ở phía dưới cầu thang ấy?”

Jason phá ra cười. Irina thì tế nhị hơn một chút. Còn tôi chẳng nói gì. Về chủ đề ma quỷ thì tôi không quan tâm. Tôi yêu thích ngôi nhà này vì những nét rất riêng của nó. Tôi nhanh chóng trở nên thân quen với những bức tường tróc lở, những căn phòng bụi bặm, khép kín, những chiếc sưởi điện kotatsu cũ kỹ xếp hàng trong nhà kho. Nhưng đôi khi, nằm trong phòng của mình, ngay kề với khu vực cấm trong ngôi nhà tôi lại có cảm giác như mình đang ở trong ranh giới phòng vệ cuối cùng. Phòng vệ chống lại cái gì thì tôi không biết. Những con chuột cống? Sự trống trải? Tôi cũng không chắc nữa. Tôi đã sống một mình quá lâu nên tôi cũng nhanh chóng quen với khoảng không bao la, trống trải đè nặng lên những bức tường phòng ngủ của mình. Dầu vậy, vẫn có những đêm ở Takadanobaba, tôi giật mình choàng tỉnh giữa đêm khuya, sợ cứng cả người vì tin rằng ai đó vừa bước qua trước cửa phòng tôi.

“Ở đây có cái gì đó đang đợi,” Sử Trùng Minh nói khi trông thấy ngôi nhà lần đầu tiên. Ngay sau hôm băng đảng của Fuyuki kéo đến hộp đêm thì ông gọi điện cho tôi nói là muốn gặp tôi. Đó chính là cái mà tôi thích, cách lựa chọn từ ngữ của ông: ông muốn gặp tôi. Trong khi ông trên đường từ Tokyo tới Takadanobaba thì tôi cuống cuồng dọn dẹp nhà cửa, mua trà và bánh ngọt để đón tiếp. Lúc này, ông đang đứng trên ngưỡng cửa với vẻ khắc khổ thường ngày, đôi tay buông thõng xuống hai bên, mắt nhìn chăm chú vào hành lang tối lờ mờ. “Ở đây có cái gì đó đang chờ được khám phá.”

“Đây là một ngôi nhà rất cổ.” Tôi nói trong khi lúi húi pha trà trong bếp, trà xanh với những chiếc bánh đậu xanh mochi gói trong giấy bóng kính. Tôi hy vọng ông không nhìn thấy vẻ bối rối của tôi. “Giá như tôi có thể nhìn thấy ngôi nhà lúc nó vừa được xây xong. Ngôi nhà này đã sống sót sau trận động đất Kanto và thậm chí cả những đợt ném bom sau này. Hẳn có rất nhiều chuyện đã xảy ra ở đây. Rất nhiều.”

Tôi xếp những chiếc bánh mochi màu vàng nhạt vào trong một chiếc khay sơn mài nhỏ, khẽ kéo lớp giấy bọc ra một chút trông giống như cánh hoa đang hé nở để lộ những nhụy hoa đầy đặn. Tôi chưa chuẩn bị đồ ăn Nhật bao giờ và tôi không thể biết được Sử Trùng Minh có đánh giá cao chuyện đó không nhưng vì muốn mọi chuyện được tiến hành theo đúng nghi lễ chứ không bừa bãi vô tội vạ nên tôi đã dành khá nhiều thời gian để chọn một góc trên chiếc khay cho bình trà. Người Nhật nói rằng đàn ông ăn bằng mắt trước. Mọi thứ phải được sắp xếp một cách cẩn thận, từng đồ vật phải được đặt đúng chỗ, tương thích với vật đứng bên cạnh nó tới từng chi tiết. Bên cạnh ấm trà tôi đặt hai chiếc tách nhỏ kiểu Nhật, đúng hơn là hai chiếc bát con bằng đất nung. Tôi bê chiếc khay ra khỏi bếp và thấy Sử Trùng Minh đang đứng trước cửa sổ, giơ hai tay lên như để hứng lấy ánh mặt trời. Ông có vẻ như đang tập trung cao độ.

“Ông Sử?”

Ông quay lại nhìn tôi. Trong ánh sáng lờ mờ của hành lang, trông ông có vẻ xanh xao. “Bên dưới cửa sổ này là gì?”

“Là một khu vườn, ông có thể mở cửa sổ ra.”

Ông do dự một lúc rồi mở cánh cửa chớp, nhìn ra bên ngoài chiếc cửa sổ đầy bụi. Dưới ánh mặt trời chói lòa, cả khu vườn lặng yên như đang nín thở, không có bất cứ vật gì chuyển động trong cái nắng bức bối, gay gắt bất thường này. Cây cối và đám dây leo trông bụi bặm và kỳ ảo. Sử Trùng Minh đứng đó rất lâu khiến tôi không dám chắc là ông có còn thở hay không nữa. “Nếu có thể, tôi muốn được ra ngoài vườn. Hãy dùng trà ở ngoài đó.”

Tôi chưa bao giờ đặt chân xuống khu vườn. Thậm chí tôi còn không chắc có đường xuống đó hay không. Hai chị em người Nga đều đã đi mất nên tôi đành phải đánh thức Jason dậy để hỏi. Anh ta xuất hiện ở cửa vừa ngáp vừa nhăn nhó, chụp vội một chiếc áo thun qua đầu rồi nhét một điếu thuốc vào miệng. Anh ta nhìn Sử Trùng Minh từ đầu đến chân không nói gì rồi nhún vai. “Ờ. Chắc chắn rồi. Có đường xuống đấy.” Anh ta dẫn hai chúng tôi tới trước một căn phòng chỉ cách phòng ngủ của tôi hai phòng. Cửa phòng không khóa, bên trong là một cầu thang bằng gỗ nhỏ.

Tôi rất ngạc nhiên. Tôi không hề biết là có cầu thang dẫn xuống vườn. Tôi cứ tưởng tất cả tầng trệt đều bị khóa kín. Thế nhưng, ở đây, phía dưới chân cầu thang tối om, lại có một căn phòng nữa, không có đồ đạc gì cả ngoài mấy chiếc lá chết khô trên sàn đá. Trước mặt chúng tôi là một cửa chắn bằng giấy shoji thủng lỗ chỗ màu xanh lá cây do mặt nước ao ngoài vườn hắt lên. Sử Trùng Minh và tôi đứng nhìn tấm chắn một lúc.

“Ngoài đó chắc không có chỗ nào để ngồi,” tôi nói.

Sử Trùng Minh chạm tay vào tấm chắn. Từ phía sau nó vang lên một âm thanh ù ù như tiếng máy phát điện công suất nhỏ, có lẽ là từ một trong những chiếc máy điều hòa nhiệt độ ở bên Tòa nhà Muối. Sử Trùng Minh dừng lại một lúc rồi quyết định kéo tấm chắn ra. Tấm màn han gỉ khựng lại một chút rồi đột ngột chuyển động, được đẩy ra phía sau, mở ra trước mắt chúng tôi một khu vườn xanh ngắt, trông giống như một khu rừng rậm nhiệt đới. Chúng tôi đứng im nhìn ra bên ngoài. Một cây đậu tía cuồn cuộn chắc nịch như cổ tay của một chiến binh, già cỗi tới mức hoa không mọc ra được nữa, rễ cành chằng chịt đan thành một chiếc lồng khổng lồ ngay trước ngưỡng cửa. Rêu và các loại cây leo nhiệt đới cuốn quanh nó, ruồi muỗi ẩn nấp trong các hốc tối bên trong, những cây hồng đỏ và cây thích mọc um tùm, rêu phong và hoa thường xuân kết thành tràng xung quanh.

Sử Trùng Minh bước ra vườn, khá nhanh nhẹn với cây gậy của mình, ánh sáng chiếu thành những mảng lốm đốm màu xanh và vàng trên gáy ông. Tôi bước theo sau một cách thận trọng, cố giữ cho chiếc khay được thăng bằng. Không khí đặc quánh vì nóng, tiếng côn trùng ra rả và mùi nhựa cây hăng hắc. Một con bọ có cánh to tướng lao vụt ra từ phía dưới chân tôi, trông giống như một con chim nhân tạo rồi bay vù vù ngay trước mặt. Tôi lùi lại phía sau một bước để tránh khiến một ít trà sánh ra ngoài khay, nhìn con bọ lượn qua trước mặt theo hình xoáy trôn ốc rồi bay lên cành cây, cánh kêu lách cách như tiếng pha lê hay tiếng kim khí. Giờ nó ngồi chồm hỗm ngay phía trên đầu tôi, to như một con chim hồng tước, đôi cánh màu hạt dẻ bóng lộn xòe ra và đập vù vù, chính là tiếng động tôi tưởng nhầm là máy phát điện lúc trước. Tôi nhìn nó chằm chằm, tim bắt đầu đập rộn ràng. Semi-no-koe của nhà thơ Basho, tôi nghĩ. Tiếng ve kêu. Thứ âm thanh lâu đời nhất ở Nhật Bản.

Ở phía trước, Sử Trùng Minh đã tìm thấy một khoảng đất trống. Tôi đi theo, bước ra giữa trời nắng chang chang, vừa hất đám mạng nhện bám đầy cánh tay xuống đất vừa nheo mắt nhìn Tòa nhà Muối màu trắng lấp lánh in trên nền trời xanh biếc. Khu vườn này hóa ra rộng hơn tôi tưởng. Phía bên tay trái tôi là một khu bùn lầy với một ao sen ngập ngụa lá mục, từng đàn muỗi bu quanh cái bóng của một cây gỗ thích khổng lồ trải dài trên mặt ao.

Sử Trùng Minh dừng lại cạnh ao sen, giữa đám phế tích hoang tàn rêu phong của một khu vườn đá Nhật Bản. Ông nhìn quanh quất như đang tìm cái gì đó, giống như một người đàn ông vừa để con chó cưng lạc mất trong rừng, và đang cố gắng kiếm tìm bóng dáng nó từ ngoài bìa rừng. Ông có vẻ tập trung tới mức khiến tôi cũng tò mò nhìn theo. Tôi chỉ thấy lờ mờ thấp thoáng sau bụi tre là lớp lưới bảo vệ màu đỏ trên các ô cửa sổ tầng trệt, một chiếc cầu cảnh xập xệ dẫn tới ao sen, không hiểu Sử Trùng Minh đang bị hớp hồn bởi cái gì. Tôi nhìn vào mắt ông, dõi theo đường đi của chúng một lần nữa và dừng mắt tại một chiếc đèn lồng đá ở bên cạnh ao sen, cạnh nó là một chiếc ghế băng bằng đá.

“Ông Sử?”

Ông khẽ cau mày và lắc đầu. Rồi như choàng tỉnh, ông quay sang nhìn tôi, lúc này mới phát hiện ra tôi đang bưng khay trà liền giơ tay ra đỡ. “Để tôi cầm cho, hãy tìm chỗ nào ngồi và uống trà.”

Tôi tìm thấy mấy cái ghế gỗ ẩm ướt, mốc meo. Chúng tôi ngồi trong bóng râm ngay bên rìa khu vườn đá, tránh ánh mặt trời chói chang. Trời nóng đến mức tôi phải làm mọi thứ một cách từ tốn, rót trà vào chén và đưa cho Sử Trùng Minh một chiếc bánh mochi để trên một đĩa sơn mài nhỏ. Ông đón lấy nó, nhìn ngó một lúc trước khi dùng nĩa rạch một đường ở giữa chiếc bánh, cắt làm đôi. Bánh mochi tẩm bột có màu nhạt nhưng bên trong nhân bánh màu đỏ tía, trông giống như miếng thịt sống nằm giữa lớp vỏ màu da. Vẻ mặt của Sử Trùng Minh lập tức thay đổi khi ông nhìn thấy nhân bánh, tôi thấy ông do dự một lúc rồi lịch sự xắn một miếng nhỏ xíu bỏ vào miệng. Ông nhai một cách chậm rãi, nuốt miếng bánh một cách khó nhọc như sợ phải ăn nó.

“Trông cô có vẻ vui hơn lần đầu tôi gặp cô,” cuối cùng ông lên tiếng sau khi uống một ngụm trà và lấy khăn mùi soa chấm miệng. “Thế nào? Ở Tokyo cô có vui không?”

Vui ư? Tôi cũng không biết nữa, tôi chưa hề nghĩ tới điều này.”

“Cô có chỗ ở,” ông chỉ tay lên tầng, nơi những đám mây đang soi mình trong ô cửa sổ bằng kính bụi bặm. “Một nơi an toàn để sống. Và có đủ tiền để tiêu.”

“Đúng vậy.”

“Cô thích công việc của mình chứ?”

Tôi nhìn chiếc đĩa. “Có vẻ thế.”

“Cô làm việc trong một hộp đêm à? Cô nói cô làm việc buổi tối mà.”

“Tôi làm tiếp viên trong hộp đêm. Chả hay ho gì.”

“Tôi biết. Tôi có biết một chút về những hộp đêm này. Tôi không phải một ông già không thèm để ý đến sự đời như vẻ bề ngoài. Thế cô làm việc ở đâu, có hai khu vực chính, Roppongi và Akasaka.”

“Yotsuya.” Tôi vẫy tay về một hướng mơ hồ nào đó. “Trong một tòa nhà lớn ở Yotsuya. Tòa nhà màu đen.”

“À, có, tôi có biết.” Ông nói vẻ đăm chiêu.

Có điều gì đó trong giọng nói của ông khiến tôi phải ngước mắt lên. Nhưng đôi mắt mờ đục của ông không nhìn tôi mà nhìn vào không trung như suy ngẫm điều gì đó hết sức mông lung.

“Giáo sư Sử? Có phải ông đến để nói cho tôi về bộ phim không?”

Ông hơi nghiêng đầu về phía tôi nhưng mắt vẫn nhìn về xa xăm. Đó không phải là một câu trả lời có, cũng không phải là câu trả lời không. Tôi đợi ông nói gì đó nhưng trong một thoáng, ông dường như quên bẵng sự có mặt của tôi. Rồi đột nhiên ông lên tiếng, giọng khẽ khàng. “Cô có biết che đậy quá khứ thật ra không phải là ngón nghề gì ghê gớm?”

“Gì cơ ạ?”

Ông nhìn tôi vẻ đăm chiêu cứ như ông đang nghĩ về tôi chứ không phải về Nam Kinh. Tôi cũng nhìn lại ông, mặt ửng đỏ.

Gì cơ ạ?

“Không có gì đặc biệt cả. Chỉ là một thủ thuật giữ im lặng.”

“Tôi không hiểu ông đang nói gì?”

Ông thò tay vào túi và lôi ra một vật giống như một con sếu nhỏ bằng bao diêm làm bằng giấy washi màu đỏ tươi và màu tía. Đầu nó rụt lại còn cánh thì dang ra. “Hãy nhìn con chim hoàn hảo này.” Ông đặt con sếu vào tay tôi. Tôi nhìn nó chăm chú. Nó nặng hơn tôi tưởng và dường như bị cột chặt dưới đáy bằng dây chun. Tôi quay sang nhìn ông vẻ dò hỏi. Ông chỉ gật đầu, mắt vẫn không rời con sếu nhỏ. “Cứ tưởng tượng con sếu nhỏ bình thản này là quá khứ. Cứ tưởng tượng đi.”

Tôi lại nhìn xuống con sếu, vẫn chưa hiểu được ý ông muốn nói gì. Rồi tôi thấy một cái gì đó xảy ra. Con sếu đang động đậy. Tôi có thể cảm thấy cổ tay mình, rồi cả người rung lên. Đôi cánh màu đỏ tía đang rung rinh. Tôi mở miệng định nói thì con chim như nổ tung. Từ giữa con sếu bung ra một vật gì đó màu đỏ đáng sợ như trong hộp đồ chơi hình nộm. Cái đầu gớm ghiếc của một con rồng Trung Hoa bật thẳng vào mặt tôi khiến tôi nhảy dựng lên và đánh rơi con sếu xuống đất. Chiếc ghế của tôi cũng bị đổ lật, và tôi đứng run lập cập nhìn xuống đất nơi con rồng lò xo bằng giấy quái đản đang co giật và xoắn lại, sợi dây chun tụt ra ngoài.

Sử Trùng Minh lấy gậy khều nó lên rồi nhét vào trong túi. “Đừng sợ, tôi không phải là ảo thuật gia.”

Tôi nhìn ông, mặt đỏ bừng, tim đập thình thịch.

“Đó chỉ là một trò trẻ con. Đừng nhìn với vẻ sửng sốt thế. Hãy ngồi xuống nào!”

Một lúc sau khi đã chắc con rồng sẽ không nhảy ra khỏi túi áo của ông nữa, tôi mới kê lại chiếc ghế và ngồi xuống, cảnh giác nhìn ông.

“Tôi chỉ muốn cô hiểu rằng nhắc tới quá khứ như là đặt một quả cầu phốt-pho dưới một bầu trời nhiều mây. Quá khứ sẽ biến đổi năng lượng. Năng lượng gió và lửa. Chúng ta cần phải tôn trọng những gì có sức công phá mạnh mẽ! Và cô đang yêu cầu xông thẳng vào quá khứ không đắn đo? Đó là một nơi vô cùng nguy hiểm. Cô phải chắc là cô thực sự muốn tới.”

“Tất nhiên là tôi muốn,” tôi nói, vẫn nhìn ông với vẻ đề phòng. “Tất nhiên là tôi muốn làm điều đó.”

“Có một vị giáo sư muốn giúp đỡ trường đại học của ông ta ở Trung Quốc,” Sử Trùng Minh bắt đầu nói, không nhìn tôi, hai tay giữ lấy tách trà, chân chụm lại. “Tôi hy vọng cô hiểu ý tôi nói. Vị giáo sư này biết được một công ty dược phẩm Trung Quốc ở Hồng Kông đang muốn hợp tác với một trường đại học để nghiên cứu về các phương pháp chữa bệnh truyền thống. Ông ta biết tầm quan trọng của việc trường đại học của ông được chọn làm đối tác trong công trình nghiên cứu này, nhưng ông ta cũng biết rằng để làm được điều đó thì trường ông phải tìm được một thứ gì đó thật đặc biệt để thu hút sự quan tâm của công ty kia.” Sử Trùng Minh ngả người về phía trước rồi hạ giọng. “Rồi một hôm, ông nghe thấy từ những nguồn rất lạ và không thể nêu danh tính tin đồn về một loại thuốc bổ vô cùng hiệu nghiệm. Người ta đồn rằng nó có thể chữa bệnh tiểu đường mãn tính, viêm khớp và thậm chí cả bệnh sốt rét.” Ông nhướng mắt nhìn tôi. “Cô có thể tưởng tượng nếu những tin đồn này là sự thực thì mọi chuyện sẽ thế nào không?”

Tôi không trả lời. Tôi vẫn chưa cảm thấy thoải mái, vẫn e ngại Sử Trùng Minh và con rồng giấy trong túi ông. Tôi cũng không biết mình chờ đợi gì ở cuộc gặp này, có thể là sự chấp thuận của ông, hay là sự ngoan cố từ chối. Cái mà tôi không mong đợi là cái vẻ tập trung cao độ xuất hiện trên mặt ông lúc này khi ông nói.

“Vị giáo sư đó hiểu rằng chỉ cần trường đại học của ông ta có thể tìm ra được thành phần của loại thuốc bổ đó thì họ sẽ có cơ hội trở thành đối tác của công ty kia. Ông ta dày công nghiên cứu và tiến hành các cuộc điều tra bí mật và cuối cùng đã lần ra dấu vết của người được cho là sở hữu loại thuốc bổ đó. Chỉ có một vấn đề duy nhất. Người này đang sống ở Nhật.”

Ông đặt ly trà xuống và ngồi hơi thẳng người lên, tay đặt trên đùi giống như một đứa trẻ chuẩn bị xưng tội. “Tôi đã không hoàn toàn trung thực với trường đại học Todai. Họ cho rằng tôi quan tâm đến những bài thuốc đông y truyền thống mà quân đội Nhật mang về nước. Nói rộng ra thì cũng đúng. Nhưng thực tế thì còn xa hơn thế. Tôi muốn có một chân ở đại học Todai vì một lý do: đến được Nhật Bản và tìm ra công thức của loại thuốc nói trên.”

“Ý ông nói là ông đã lừa dối. Ông lừa họ để có thể nhận được học bổng nghiên cứu.”

Ông mỉm cười thoáng chút chế giễu. “Nếu cô muốn dùng từ như thế. Đúng vậy, tôi đã lừa dối. Sự thật là tôi ở Tokyo để tìm cách đảm bảo tương lai cho trường đại học của mình. Nếu tôi có thể tìm thấy thành phần bí mật của loại thuốc đó thì mọi sự sẽ thay đổi, không phải chỉ cho riêng mình tôi mà còn cho hàng trăm người khác.” Ông mệt mỏi dụi mắt. “Tiếc rằng sự xuất hiện của tôi ở Tokyo không phải là sự kết thúc cuộc săn tìm. Đúng hơn, nó là sự mở đầu. Người đàn ông mà tôi muốn gặp là một ông già hơn tám mươi tuổi, là một trong những người đàn ông quyền lực nhất nước Nhật. Ông ta lúc nào cũng được bảo vệ bởi những người rất kín tiếng và những thông tin rò rỉ ra ngoài chỉ là các lời đồn đại và phỏng đoán. Nói một cách ngắn gọn, tôi đang húc phải một bức tường.” Sử Trùng Minh mỉm cười.

“Tôi không hiểu tại sao ông lại kể cho tôi nghe chuyện này. Tôi chẳng liên quan gì tới nó hết.”

Ông gật đầu, như thể lần này thì tôi đã đúng. “Ngoại trừ một việc là những lúc khỏe mạnh, ông ta vẫn thường lui đến các hộp đêm ở Tokyo. Và một trong những chỗ ông ta thỉnh thoảng xuất hiện chính là hộp đêm mà cô đang làm việc. Có lẽ bây giờ thì cô hiểu tôi đang nghĩ gì rồi đấy.”

Tôi dừng tách trà lại ngay trước miệng, nhìn Sử Trùng Minh và hiểu ra tất cả. Sử Trùng Minh đang nói về Junzo Fuyuki.

“Đúng không?” Ông nói có phần ranh mãnh, bắt gặp ánh mắt sửng sốt của tôi. “Sao vậy? Tôi không làm cô khó chịu đấy chứ?”

“Tôi biết ông nói đến ai. Tôi nghĩ là tôi đã gặp ông ta, Junzo Fuyuki.” Mắt Sử Trùng Minh sáng lên, thông minh và sắc sảo.

“Cô đã gặp ông ta,” ông nói, hơi vươn người về phía trước. “Linh tính của tôi đã đúng.”

“Ông ta ngồi xe lăn.”

“Đúng vậy.”

“Giáo sư Sử,” tôi hạ chiếc chén xuống, “Junzo Fuyuki là một tay anh chị, ông biết chứ?”

“Dĩ nhiên rồi. Đó là điều tôi muốn nói với cô. Ông ta là một oyabun, bố già của nhà Fuyuki. Ông cầm tách trà lên từ tốn dùng thêm vài hớp rồi lại đặt xuống bàn. Ông dường như lấy lại tư thế của mình, cái tư thế nghiêm túc kiểu nhà binh trước khi nói tiếp. “Giờ tôi muốn đề nghị với cô một chuyện. Fuyuki đôi khi tỏ ra thân thiện với các nữ tiếp viên ở các hộp đêm. Ông ta thỉnh thoảng tổ chức tiệc ở nhà nơi tôi chắc chắn là ông ta cất giấu thứ bí dược mà chúng ta nói đến. Ông ta thích uống rượu và tôi tin là thỉnh thoảng ông ta cũng lơi lỏng việc bảo vệ. Có thể ông ta sẽ trò chuyện với cô và cô sẽ phát hiện ra được thành phần của thứ thuốc nói trên.”

“Tôi đã nhìn thấy nó. Ý tôi là tôi đã thấy ông ta uống một cái gì đó. Một cái gì đó... một...” Tôi nói và giơ ngón cái và ngón trỏ lên, cách nhau vài phân để diễn tả độ dài của ống thuốc thủy tinh mà tôi nhìn thấy mụ Y Tá cầm. “Một chất lỏng với thứ bột màu nâu.”

Sử Trùng Minh nhìn tôi một lúc lâu. Ông lấy tay cọ cọ vào môi như thể chúng bị nẻ. “Màu nâu?” Cuối cùng ông ta lên tiếng, cố giữ giọng bình thường.

“Không đúng như ông dự đoán à?”

“Không. Không phải vậy,” ông nói, thò tay vào túi rút ra một chiếc mùi soa lau trán. “Nó đúng y như tôi đoán. Dạng bột, cô đặc.” Ông thôi không vỗ trán nữa và đút chiếc khăn tay vào trong túi. “Giờ thì…” Ông nói, giọng bình tĩnh một cách gắng gượng. “Giờ thì, đây chính là điều cô có thể giúp tôi. Tôi cần biết thứ bột đó là gì.”

Tôi không trả lời ngay. Tôi cúi người, cẩn thận đặt tách trà xuống khay và ngồi đó, hai tay đặt trên đầu gối, hơi nghiêng người ra phía trước, vừa nhìn tách trà vừa suy nghĩ về những điều ông vừa nói. “Ông muốn nói là nếu tôi tìm ra thứ bột đó thì đổi lại, ông sẽ cho tôi xem bộ phim.”

“Đừng coi thường chuyện này. Cô không thể biết được nó nguy hiểm thế nào đâu. Nếu ai đó biết, hay nghi ngờ là tôi yêu cầu cô...” Ông giơ một ngón tay lên, vẻ mặt hết sức căng thẳng: “Ông ta không bao giờ được biết là tôi yêu cầu cô làm việc này. Cô không được trực tiếp hỏi ông ta. Cô phải hết sức thận trọng và tuyệt đối bí mật. Dù cho có phải mất hàng tuần, có khi hàng tháng.”

“Tôi không hỏi ông chuyện đó. Tôi nói là nếu tôi chấp nhận thì ông có cho tôi xem bộ phim đó không?”

“Cô đồng ý làm chuyện đó?”

“Ông sẽ để cho tôi xem phim chứ?”

Ông không hề chớp mắt. Vẻ mặt ông không hề thay đổi. Ông chỉ nhìn tôi vẻ lạnh lùng.

“Thế nào, ông có cho tôi xem...”

“Được,” ông đột ngột lên tiếng. “Được, tôi sẽ cho cô xem.”

Tôi ngập ngừng, miệng há hốc. “Ông sẽ cho tôi xem?”

“Đúng.”

“Có nghĩa là nó tồn tại. Nó thực sự tồn tại. Tôi không hề tưởng tượng ra nó?”

Ông thở dài, mắt hơi cụp xuống, một tay day day bên thái dương vẻ mệt mỏi. “Đúng là có cuộn phim đó,” ông lầm bầm. “Cô không hề tưởng tượng ra nó.”

Tôi cúi đầu xuống vì không muốn ông nhìn thấy nụ cười vừa nở bừng trên mặt tôi. Vai tôi rung lên và tôi phải dùng ngón trỏ và ngón cái của mình giữ lấy hai bên cánh mũi và khẽ lắc đầu vì lòng tôi chợt nhẹ bẫng, tiếng cười như đang vỡ lạo xạo trong tai tôi.

“Giờ thì cô có giúp tôi hay không?” Ông nói. “Cô có định giúp tôi không?”

Cuối cùng khi đã nhịn được cười, tôi bỏ hai tay xuống và ngước nhìn ông.

Lúc này vì một lý do nào đó mà trông ông nhỏ bé, nhăn nhúm và yếu ớt hơn bao giờ hết trong chiếc áo jacket sờn cũ vắt trên vai. Mắt ông nhìn chăm chú, chỉ còn thấy hai đồng tử co lại, một vệt mồ hôi mờ mờ trên sống mũi. “Cô sẽ giúp tôi chứ?”

Thật là chuyện lạ lùng. Chấp nhận một thỏa ước với một vị giáo sư già, mà với những gì tôi biết thì có thể nói là cũng mất trí hệt như mọi người vẫn gán cho tôi. Phải chăng người ta vẫn hay chấp nhận làm những chuyện lạ đời chỉ để tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn? Chúng tôi ngồi đó, nhìn nhau rất lâu, tiếng côn trùng ong ong trong đầu tôi và trên trời, một chiếc máy bay đang hướng về sân bay Narita để lại trên nền trời xanh oi bức một làn khói trắng. Cuối cùng, tôi gật đầu. “Tôi đồng ý,” tôi khẽ nói. “Tôi sẽ làm chuyện đó.”

Ở dưới vườn cũng có cổng mở ra đường, tạo thành một đường hầm dưới tầng hai. Khi tiễn Sử Trùng Minh về vào đầu giờ chiều, tôi ngạc nhiên khi thấy chiếc khóa gỉ sét vẫn hoạt động và cánh cửa cũ rích đó vẫn có thể mở ra được một cách khó khăn, cho phép ông bước thẳng ra phố. “Ở Trung Quốc, chúng tôi không nghĩ về thời gian như người phương Tây. Chúng tôi tin rằng tương lai... rằng chúng tôi có thể nhìn thấy tương lai trong quá khứ.” Ông nói khi đứng bên ngưỡng cửa với chiếc mũ trên tay. Ông quay ra nhìn khu vườn một lần nữa như có ai đó thì thầm gọi tên ông. Ông giơ hai tay lên như để cảm nhận được không khí hay hơi thở của ai đó phả lên lòng bàn tay.

Tôi quay lại nhìn chăm chú vào chiếc đèn đá. “Ông thấy gì à? Sử Trùng Minh, ông đang nhìn cái gì vậy?”

“Tôi nhìn thấy... Một khu vườn. Tôi nhìn thấy một khu vườn. Và tôi thấy tương lai của nó. Đang chờ được khám phá.” Ông nói giọng nhẹ nhàng, bình thản.

Khi ông đi khỏi tôi khóa cửa lại rồi đứng một lúc trong bóng tối của đường hầm, vôi vữa rụng lả tả xung quanh để lộ những chiếc máy tiện xám màu đầy mạng nhện. Tôi nhìn ra ngoài vườn. Tôi tưởng tượng ra người cha và người mẹ của chủ nhà ở đây, đôi guốc gỗ của bà nện lọc cọc trên những phiến đá lát dọc đường đi, một chiếc ô màu đỏ tươi, và có thể là một chiếc lược bằng xương được tẩy trắng có hình con bướm, tình cờ bị rơi ra và bị lãng quên, văng vào trong đám lá mục, nằm ẩn ở đó rồi sau nhiều năm bắt đầu lẫn vào đất đá. Thần đạo Nhật cho rằng các linh hồn hóa thân vào cây cối, chim chóc và côn trùng, nhưng ở Tokyo có rất ít khu vực màu xanh và thứ hoa duy nhất người ta hay bắt gặp là những dải anh đào làm bằng nhựa treo bên ngoài các cửa hiệu dịp lễ tết. Bạn không bao giờ nghe thấy chim hót. Có lẽ, tất cả các linh hồn của thành phố đều đang ẩn nấp ở những nơi bị lãng quên như thế này.

Lúc này, đứng trong bóng tối, biết chắc rằng Sử Trùng Minh đang giữ bộ phim có ảnh hưởng lớn đến những gì đã xảy ra với tôi, khẳng định niềm tin của tôi về sự tồn tại của quyển sách màu da cam tôi đọc từ nhiều năm trước, thì tôi hiểu rằng, câu trả lời mà tôi khao khát bấy lâu đã rất gần kề, rằng không bao lâu nữa tôi có thể với tay ra và khi rút tay về, tôi sẽ nhận ra cuộn phim đã lẻn vào bên trong và nằm gọn trong tay tôi.