A Mạch Tòng Quân

Chương 70: Ván cờ

Mười chín tháng tám, Đường Thiệu

Nghĩa rời khỏi đại doanh Giang Bắc, chuẩn bị “Đại lễ” cho người Bắc Mạt. Vết thương của A Mạch vẫn chưa lành, nhưng vẫn một thân nhung trang đến tiễn anh ta. Đường Thiệu Nghĩa thong thả vượt qua Thương Dịch Chi và Từ Tĩnh, ánh mắt chỉ nhìn lướt qua trên người A Mạch rồi xoay người lên

ngựa, giật dây cương bước đi, đã thấy A Mạch đi lên theo. Trong lòng

Đường Thiệu Nghĩa trào dâng đủ loại cảm xúc nhưng trên mặt cũng không

dám mảy may thể hiện, chỉ lẳng lặng nhìn A Mạch chăm chú.

“Đại ca,” A Mạch ngửa mặt, nhìn Đường Thiệu Nghĩa rồi vươn tay ra.

Đường Thiệu Nghĩa hiểu ý, ở trên ngựa cúi người xuống nắm lấy tay nàng.

A Mạch nắm tay thật chặt, dặn dò: “Hãy bảo trọng!”

Đường Thiệu Nghĩa nặng nề gật đầu, khóe miệng khẽ mím lại, trong mắt lại để lộ ra nỗi vui mừng khó nén.

A Mạch buông tay ra, lùi lại phía sau vài bước, nhìn đội hình của Đường Thiệu Nghĩa dần dần đi xa, đến khi

quay người nhìn lại, thấy Thương Dịch Chi và các tướng lãnh khác đều đã

rời đi, chỉ còn lại một mình Từ Tĩnh vẫn đứng đó nhìn nàng. A Mạch không buồn để ý, đi ngang qua người ông ta, nhưng Từ Tĩnh lại theo sát ở phía sau, cười hỏi: “A Mạch ơi A Mạch, không phải là ngươi nếm roi còn chưa

đủ đấy chứ?”

A Mạch dừng lại quay đầu nhìn ông ta, thản nhiên nói: “Vốn là vô tư, trong sáng, hà tất phải ám muội, khuất tất.”

Từ Tĩnh bị nàng nói thế thì nghẹn

giọng sửng sốt, đến khi muốn nói tiếp thì A Mạch đã đi xa rồi, đành phải lẩm bẩm: “A Mạch ơi A Mạch, ngươi làm tướng quân mới được vài ngày, mà

đã có được khí thế này rồi, thật là có ý tứ a.”

Ngày 29/8, Thương Dịch Chi rời khỏi

dãy núi Ô Lan, Trương Sinh lĩnh một ngàn kỵ binh hộ tống cho đến thượng

du sông Uyển, Thương Dịch Chi bỏ ngựa lên thuyền theo sông Uyển xuôi về

hướng Đông.

Khi bắt đầu đi vào lưu vực sông Uyển, mọi người mới có thể thả lỏng tâm lý một chút, Thương Dịch Chi cũng cởi nhung trang thay bằng cẩm bào, thỉnh thoảng đứng ở đầu thuyền thưởng

thức cảnh sắc hai bên bờ sông Uyển. A Mạch đã đổi lại phục sức của thân

vệ, nhìn bộ hắc y nhuyễn giáp quen thuộc này, A Mạch không khỏi thở dài, bản thân mình vốn liều chết liều sống tránh né thiên tướng doanh quan,

ai ngờ Thương Dịch Chi chỉ nói câu nói đầu tiên đã đem nàng đánh trở về

nguyên hình. Vốn không muốn cùng Thương Dịch Chi đối mặt nhiều, nên A

Mạch ngoài những lúc trực ra, còn lại rất ít khi lộ diện, mỗi ngày chỉ ở trong khoang thuyền lật xem bản Tĩnh quốc công Bắc chinh thật lục, cũng coi như hưởng thụ lạc thú.

Cứ như vậy được mấy ngày, đến sáng

sớm nay, lúc A Mạch đang ở trong khoang thuyền nghỉ ngơi, thì có thân vệ đến truyền tin nói nguyên soái cho gọi nàng. A Mạch không biết Thương

Dịch Chi tìm nàng có chuyện gì, vội vàng chỉnh lại y phục rồi ra khỏi

khoang thuyền. Đợi đến khi lên đến phía trên, thấy Thương Dịch Chi đang

đứng ở đầu thuyền nhìn Giang Bắc đến xuất thần. A Mạch nhẹ bước lên,

đang do dự không biết có nên lên tiếng gọi anh ta hay không, thì chợt

nghe thấy Thương Dịch Chi nhẹ giọng nói: “Đã đến thành Thái Hưng.”

A Mạch nghe vậy thì ngẩn ra, theo tầm mắt của Thương Dịch Chi nhìn lại, quả nhiên thấy trong sương mù mờ ảo

là bóng dáng thành Thái Hưng như ẩn như hiện.

Thành Thái Hưng, thuộc bình nguyên

Nam Đoan, cùng Phụ Bình Nam giáp phía bắc sông Uyển, cả hai nương tựa

vào nhau cùng tồn tại, vượt qua hai châu Túc, Tương, khống chế nam bắc,

từ xưa đến nay đều là vùng giao tranh của binh gia. Một khi Bắc Mạc đánh hạ được thành Thái Hưng, chẳng những sẽ mất hết cả vùng Giang Bắc, mà

người Bắc Mạt còn có thể thuận theo đường sông mà tiến xuống phía Đông,

đánh thẳng đến kinh thành Nam Hạ. Khó trách tiểu hoàng đế Bắc Mạc lại

không kiềm chế được, bỏ qua ý kiến phản đối của triều thần mà tự mình

chỉ huy việc tấn công Nam Hạ, A Mạch thầm nghĩ.

“Cũng không biết thuỷ quân của Chu Chí Nhẫn như thế nào ?” A Mạch không khỏi hỏi ra thành tiếng.

Thương Dịch Chi nghe vậy nghiêng đầu

nhìn A, cười nhạt, đáp: “Người Bắc Mạc mặc dù kỵ binh tinh nhuệ, nhưng

lại không thiện thuỷ chiến, Chu Chí Nhẫn nếu muốn trong vòng mấy tháng

thành lập ra thủy quân có thể địch nổi thuỷ quân Nam Hạ của ta, chẳng

khác gì si tâm mộng tưởng.”

“Nhưng Chu Chí Nhẫn lần này cũng

không sốt ruột.” A Mạch nói, lúc này đây, Chu Chí Nhẫn rất kiên nhẫn,

siết chặt vòng vây, thậm chí còn bắt đầu lập kế hoạch kiến lập thuỷ

quân, cắt đứt liên lạc của thành Thái Hưng.

Thương Dịch Chi cười nhạt, trầm mặc thật lâu, sau đó đột nhiên quay đầu hỏi A Mạch: “Đọc xong quyển sách kia chưa?”

A Mạch không biết Thương Dịch Chi sao lại đột nhiên chuyển tới đề tài này, nên đành phải gật đầu nói: “Đã là xem xong rồi.”

Thương Dịch Chi cũng không nói nữa,

quay đầu đi tiếp tục nhìn sông nước đến xuất thần. A Mạch đoán không ra

tâm tư của anh ta, nên cũng không lên tiếng nữa, chỉ yên lặng đứng bên

cạnh anh ta nhìn về phía thành Thái Hưng xa xa, đây là thành lớn nhất

của vùng Giang Bắc, đã bị người Bắc Mạt vây khốn gần một năm nay.

Thân vệ lại đến mời Thương Dịch Chi

trở lại khoang thuyền ăn điểm tâm, A Mạch tự biết thân phận hiện tại của mình không thể cùng Thương Dịch Chi ăn chung một bàn, liền tự mình

xuống phòng bếp lấy đồ ăn. Đợi lúc dùng xong điểm tâm, khi A Mạch vừa

trở lại phòng, Thương Dịch Chi lại cho thân vệ mang một tập sách đến, A

Mạch nhất nhất lật xem, thấy có Binh pháp Tôn Tử, Ngô tử, Lục thao, đều

là những cuốn binh thư thông thường, vẫn thấy ở trong thư phòng của phụ

thân, chẳng qua khi ấy đều cùng Trần Khởi đọc, nhưng nàng lại chưa bao

giờ nhìn kỹ.

A Mạch cười hỏi: “Nguyên soái có truyền đạt gì không?”

Tên thân vệ kia vội vàng khom người đáp: “Không có, nguyên soái chỉ phân phó tiểu nhân đưa đến đây cho Mạch tướng quân.”

“Ừ, được rồi!” Trong lòng A Mạch

không khỏi buồn bực, không hiểu đây là Thương Dịch Chi có ý gì, đến khi

tĩnh tâm lại, thấy thân vệ kia vẫn còn khoanh tay đứng đó chờ nàng, A

Mạch cười nói: “Hiện tại thân phận của chúng ta giống nhau, đừng gọi ta

là tướng quân, gọi A Mạch là được rồi.”

Thân vệ kia ngay cả nói cũng không dám, A Mạch chỉ cười cười, cũng không nói thêm nữa.

Tự đó về sau, A Mạch càng ít lộ diện, mỗi ngày đều ở trong phòng đọc binh thư. Khi nàng còn bé, nhìn thấy mấy thứ này chỉ cảm thấy buồn tẻ vô vị, lại càng không hiểu nổi vì sao Trần Khởi lại xem chuyên chú như vậy, nhưng nay tòng quân đã được một năm,

giờ cầm lên đọc mới cảm nhận được tư vị ở trong đó.

Chưa được mấy ngày thuyền đã đến Hằng Châu, đi vào Thanh Hồ, mặt nước càng rộng, sức nước càng chậm hơn,

Thương Dịch Chi cũng không sốt ruột, chỉ phân phó cho thuyền đi chậm

lại, gặp nơi phồn hoa còn có thể dừng thuyền tới du ngoạn một, hai ngày. Viên quan bộ Lễ kia vẫn đi theo phía sau cũng không thúc giục, ngược

lại, lại thường xuyên sang thuyền nói chuyện phiếm cùng Thương Dịch Chi, hai người đối đáp thi phẩm qua lại, A Mạch ngồi nghe mà choáng váng đầu óc, không khác gì chịu cực hình.

Một hôm, đến phiên trực của A Mạch,

thấy viên quan kia lại sang thuyền tới tìm Thương Dịch Chi, sau khi dâng trà xong, A Mạch đang muốn tìm cớ để trốn ra ngoài, lại nghe Thương

Dịch Chi yêu cầu người nọ đánh cờ, trong mắt A Mạch không khỏi sáng lên, không tiếp tục kiếm cớ nữa, lẳng lặng đứng ở một bên xem.

Thương Dịch Chi cùng viên quan kia kì nghệ tương đương nhau, hai người ở trên bàn cờ chém giết kịch liệt, A

Mạch cũng xem đến mê mẩn, đúng lúc đó Thương Dịch Chi gọi A Mạch thêm

trà, phải gọi đến hai, ba câu mới khiến A Mạch hoàn hồn. A Mạch vội vàng đổi bình trà khác, nàng thấy Thương Dịch Chi có chút không vui, liền

không dám xem tiếp, lại luyến tiếc ván cờ đầy phấn khích này, nhưng cũng đành lui lại phía sau.

Ai ngờ chưa xong một ván, trên mặt

Thương Dịch Chi có vẻ mệt mỏi, viên quan kia cũng là người thông minh,

thấy vậy liền tìm cớ cáo từ rời đi. Trong lòng A Mạch thầm kêu đáng

tiếc, đi theo Thương Dịch Chi tiễn viên quan kia rời thuyền, khi trở về

lại nghe Thương Dịch Chi như thể tùy ý hỏi nàng: “Ngươi biết chơi cờ?”

A Mạch thành thực đáp: “Có biết một chút.”

Thương Dịch Chi chậm rãi đi đến trước bàn cờ, nhẹ giọng nói: “Vậy thì giúp ta chơi tiếp.”

A Mạch không ngờ Thương Dịch Chi sẽ

yêu cầu nàng chơi cờ, bất giác có chút ngây ngốc. Thương Dịch Chi đã ở

ngồi xuống chiếu, khẽ nghếch đầu lên nhìn A Mạch. A Mạch vừa mới xem bọn họ chơi cờ, tay chân đã ngứa ngáy khó nhịn, hiện nghe Thương Dịch Chi

yêu cầu nàng như vậy, không biết ma xui quỷ khiến thế nào liền ngồi

xuống bàn cờ đối diện với anh ta, cùng anh ta đánh tiếp ván cờ.

Khi còn bé, A Mạch đã từng theo mẫu

thân tập chơi cờ, ngoại trừ mấy năm lưu lạc bên ngoài, thì có thể coi là kẻ mê cờ, đáng tiếc mẫu thân của nàng là một người chơi cờ rất dở, nên

dạy dỗ A Mạch thành một kẻ chơi cờ cũng rất dở. Quả nhiên chỉ chơi được

một lát, Thương Dịch Chi liền nhíu mày, đợi tới giữa ván cờ, anh ta nhịn không được thấp giọng nói một tiếng: “Thối.” A Mạch đỏ mặt, nhìn trộm

Thương Dịch Chi, thấy trên mặt anh ta cũng không lộ vẻ mất kiên nhẫn,

cảm thấy an tâm, liền đặt hết tâm tư vào ván cờ, nhưng mặc dù vậy, cuối

cùng vẫn bị Thương Dịch Chi đánh giết cho không còn mảnh giáp.

Thấy A Mạch mang vẻ mặt không cam lòng, Thương Dịch Chi lại bật cười thành tiếng, nói: “Nếu không phục thì chơi lại ván nữa.”

A Mạch gật đầu, hai người bày lại bàn cờ, lại chém giết lần nữa, nhưng kết quả vẫn giống như ván trước, chẳng qua là lần này A Mạch thua thảm hại hơn mà thôi. A Mạch sao có thể chịu phục, hai người liền chơi thêm ván nữa, A Mạch vì cầu thắng nên sốt

ruột, liền cho quân trắng mạo hiểm xâm nhập, lại bị quân đen của Thương

Dịch Chi vây chặt, mắt thấy đã rơi vào tuyệt cảnh, trong lòng A Mạch dần dần cảm thấy cấp bách, bất tri bất giác liền để lộ ra diện mạo của

mình. Sau một lúc cân nhắc, nàng liền hạ xuống một quân, Thương Dịch Chi cười khẽ, liền hạ một quân cờ đen xuống, ai ngờ A Mạch lại đột nhiên

chặn tay anh ta lại, rất xấu tính mà rối rít kêu lên: “Không tính, không tính, quân này không tính!”

Thương Dịch Chi ngẩn ra, rồi lại nhẹ nhàng cười, nói: “Theo ý ngươi, không tính thì không tính.”

A Mạch đặt cả tâm tư lên bàn cờ, hoàn toàn không ý thức được vừa rồi mình đã vô tình để lộ ra tư thái của

tiểu nữ nhi, thấy Thương Dịch Chi cho nàng đi lại, vội vàng nhấc quân

trắng vừa đặt xuống lên, lấy tay ôm má một phen suy nghĩ khổ sở.

Thương Dịch Chi cũng không sốt ruột,

chỉ lẳng lặng chờ nàng, đợi A Mạch đi lại rồi mới ra quân cờ tiếp theo.

Lại là nước cờ chết, A Mạch lại đòi đi lại, Thương Dịch Chi cũng không

cảm thấy phiền, mặc cho A Mạch đi lại, cho dù như vậy, đến cuối cùng A

Mạch vẫn thua thêm mấy ván.

Từ hôm đó trở đi, mỗi khi đến phiên

trực của A Mạch, Thương Dịch Chi sẽ lại bảo nàng chơi cờ, A Mạch kì nghệ thấp kém, tất nhiên là bại nhiều, thắng ít, mỗi khi thua lại vô cùng

không phục, khi trở về sẽ cẩn thận khảo cứu lại ván cờ, không tìm ra đối sách để thắng thì không chịu ngừng lại. A Mạch kì nghệ không cao, nhưng trí nhớ lại vô cùng tốt, ngày thứ hai vẫn có thể đem ván cờ đã thua

ngày hôm trước ra bày lại, khiến cho Thương Dịch Chi cũng không thể

không cảm thấy sợ hãi mà cam bái hạ phong.

Kể từ đó, thời gian trên thuyền trôi

đi nhanh hơn, cứ như vậy mà đã được bảy, tám ngày, thuyền đã đi tới

ngoại thành Thịnh Đô. Thịnh Đô, kinh đô của Nam Hạ, là một kinh đô cổ

kính. Tên gọi là Thịnh Đô, tất nhiên là một nơi vô cùng phồn hoa.

Thương Dịch Chi thay cẩm y, khoác

chiến bào, mặc ngân giáp, một thân nhung trang xuống thuyền, sớm đã có

gia nhân của phủ Định Nam Hầu chờ ở bến tàu, thấy Thương Dịch Chi xuống

thuyền vội vàng chạy đến đón, cung kính gọi: “Tiểu Hầu gia.”

Thương Dịch Chi gật đầu, phân phó gia nhân: “Trở về nói với mẫu thân đại nhân, ta sau khi diện thánh liền hồi phủ.” Gia nhân kia lĩnh mệnh mà đi. Thương Dịch Chi lên ngựa, A Mạch

chờ ba mươi sáu danh thân vệ rồi cùng hộ tá Thương Dịch Chi về hướng

Thịnh Đô. Chưa đến cửa thành, đã thấy một thanh niên mặc cẩm y dẫn theo

mấy vị quan viên chờ ở ngoài thành.

Thương Dịch Chi xuống ngựa, tiến lên vài bước hành lễ, thanh niên kia vội vàng đỡ lấy anh ta, cười nói: “Biểu ca, đừng đa lễ.”

Thương Dịch Chi đứng thẳng người dậy, cũng cười, hỏi: “Sao Nhị điện hạ lại đến đây?”

Thanh niên kia ôn hòa cười, nói: “Hôm trước Thái tử trúng chút phong hàn, phụ hoàng lệnh cho ta tới đón biểu ca.”

A Mạch vẫn đi theo sau Thương Dịch

Chi, nghe Thương Dịch Chi gọi người này là Nhị điện hạ, lúc này mới biết người thanh niên có vẻ mặt ôn hòa này hóa ra lại chính là người vốn

tranh đấu gay gắt với thái tử, Nhị hoàng tử Tề Mẫn.