A Mạch Tòng Quân

Chương 10: Tâm tư

Lão Trương thật ra là một xa phu rất

biết nghe lời, ngay cả vì sao phải đi hướng Đông cũng không hỏi, chỉ

quay xe lại rẽ theo con đường đi về phía Thanh Châu.

Từ Tĩnh ở trong xe, khuôn mặt âm trầm quét qua quét lại trên mặt A Mạch, những câu mằng chửi vẫn nghẹn ở

trong bụng, vì mũi kiếm của A Mạch nhẹ để ở trước ngực mà không dám nói

thành lời. A Mạch thấy sắc mặt ông ta biến ảo, thì thản nhiên nói: “Tiên sinh đừng vội trách cứ A Mạch vô lễ, có lẽ về sau này tiên sinh sẽ phải cảm tạ A Mạch vì đã cứu ông một tính mạng .”

Từ Tĩnh nghe vậy thì trên mặt lộ vẻ

rất ngạc nhiên, ông ta vốn là người có tâm trí rất cao, nghe A Mạch đột

nhiên nói ra những lời ấy, vất vả nghĩ ngợi một chút liền đoán ra. Nàng

nhận lời ủy thác của một giáo úy thủ thành Hán Bảo mà đến đây, tất sẽ

biết một chút việc quân cơ yếu, theo bản năng liền hỏi: “Chẳng lẽ là Dự

Châu có biến?”

A Mạch cả kinh nhìn về phía Từ Tĩnh,

trong mắt còn ánh lên nỗi kinh ngạc. Từ Tĩnh thấy vậy không khỏi cười

lạnh, thầm nghĩ tiểu tử này dù sao vẫn còn ít tuổi, dấu không được

chuyện gì, mọi tâm tư trong lòng đều hiện hết lên trên mặt, để cho người như vậy đưa thư cơ yếu, có thể thấy thành Hán Bảo thật sự đã hết người.

“Tiểu tử nhà ngươi không cần nhìn ta

như thế”. Từ Tĩnh khinh thường bĩu môi, lạnh giọng nói: “Ngươi một thân

vấy máu, chính là vừa trải qua một kiếp sinh tử. Thành Hán Bảo vốn rất

nhỏ, căn bản là không ngăn được đại quân Bắc Mạc, tất sẽ bị phá. Đại

quân Bắc Mạc đi từ phía tây đến, tất sẽ không vì một cái thành Hán Bảo

nho nhỏ mà dừng lại, nên sau khi hạ thành Hán Bảo xong, hoặc là sẽ đưa

quân đến thẳng thành Thái Hưng, hoặc là lên phía Bắc vây khốn Dự Châu.

Kết hợp với Đông lộ Bắc Mạc đại quân tạo thành thế gọng kìm đánh Nam Hạ. Thành Thái Hưng gặp nguy, điều này cũng là lẽ thường. Nhưng người Bắc

Mạt cũng có khả năng làm một chuyện khác với lẽ thường là đi lên phía

Bắc vây hãm, tấn công Dự Châu, khống chế yết hầu Giang Bắc, làm cho ba

mươi vạn đại quân ở biên giới phía Bắc của ta hai mặt thụ địch mà không

thể chi viện Thái Hưng. Ngươi nhận lời ủy thác từ thành Hán Bảo, khả

năng đã biết tây lộ Bắc Mạc đại quân đi về phía nào. Ngươi đến thành

Thái Hưng vốn không ngoài hai mục đích. Thứ nhất là cảnh báo, cầu cứu.

Bất quá sau khi ngươi biết được Thái Hưng bị vây liền đi Thanh Châu, xem ra hẳn là mục đích thứ hai. Hiện tại Thái Hưng cùng Dự Châu đã ở vào

thế chết, chỉ có Thanh Châu có thể dẫn binh tới cứu, lão phu nói như vậy có đúng không?”

A Mạch nghe Từ Tĩnh phân tích, trên

người toát ra một tầng mồ hôi lạnh, thiếu chút nữa giơ ngón tay cái ra

thể hiện sự bội phục đối với hán tử gầy gò này. Không gì ông ta nói mà

không đúng, chỉ trừ một điểm, đó là nàng đi Thanh Châu không chỉ vì viện binh, mà là muốn mượn Thanh Châu, xuyên qua Thái Hành, rời bến, theo

đường biển đi Giang Nam.

Từ Tĩnh nhìn bộ dáng A Mạch vừa kinh

sợ, vừa ngây ngốc, trên mặt lộ ra sự đắc ý tươi cười, không tự chủ được

khẽ cử động bộ ngực gầy yếu. Không cẩn thận chạm phải mũi kiếm trước

ngực, ông ta biến sắc, cả giận nói A Mạch: “Tiểu tử, ngươi còn không

nhanh thu kiếm của ngươi về, cẩn thận ngộ thương lão phu rồi, thì ngươi

có hối hận cũng không kịp!”

A Mạch bị ông ta làm cho cả kinh, vội vàng thu kiếm, cúi đầu chậm rãi tra kiếm vào vỏ, các loại ý niệm trong

đầu nhanh chóng vòng vo lướt qua một lượt, đến khi ngẩng đầu lên thì

biểu hiện trên mặt đã sớm thay đổi, chỉnh trang lại vạt áo, hướng về

phía Từ Tĩnh vái một vái, cực kỳ khẩn thiết nói: “A Mạch vô lễ, mong

tiên sinh tha thứ. Còn thỉnh tiên sinh cứu ta.”

Vẻ mặt Từ Tĩnh từ sợ hãi chuyển thành kiêu căng, thẳng lưng nhận của A Mạch một lễ, miệng hừ lạnh.

A Mạch không để ý đến phản ứng của

ông ta, chỉ cúi đầu nói tiếp: “A Mạch tuy là người làm ăn buôn bán, song vẫn nhìn ra tiên sinh là người có tài kinh thiên vĩ(1), ngày sau tất

nổi danh khắp bốn nước.”

Chỉ bằng mấy câu nói vuốt đuôi ngựa

này mà đã chụp được cả tứ chi của nhà thông thái Từ Tĩnh, khiến cho ông

ta cảm thấy thực là thoải mái, tay không tự chủ được đưa lên vuốt ve mấy cọng râu dê, thầm nghĩ tiểu tử này tuy rằng hơi lỗ mãng, nhưng ánh mắt

thật ra còn có chút sáng suốt. Nghĩ như thế, nỗi tức giận trong lòng đối với A Mạch đã giảm đi ba phần.

“Chỉ bằng gặp một người là A Mạch, mà tiên sinh có thể đem thế cục thiên hạ nói được thấu triệt như vậy, tiên sinh quả thật là người thần, A Mạch không ngừng bội phục.”

Từ Tĩnh ánh mắt lại càng lim dim, nỗi bất mãn với A Mạch lại giảm thêm ba phần nữa.

A Mạch trộm quan sát phản ứng của Từ

Tĩnh, tự cảm thấy nếu nói bản thân đã nắm được thóp của ông ta thì cũng

không có gì sai biệt lắm, lúc này mới nói tiếp: “Tiên sinh vội đi Dự

Châu, tất là muốn cứu dân chúng khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. A Mạch

không biết, đã làm hỏng kế hoạch của tiên sinh, thật sự là có tội. Thành Hán Bảo đã bị phá, quân sĩ thủ thành của ta đều chết trận ở trên tường

thành, thủ thành Lưu đại nhân lại lấy thân tuẫn quốc(2), A Mạch chịu sự

ủy thác của Đường giáo úy, hận không thể lập tức bay đi Thanh Châu dẫn

cứu binh tới cứu. Mong rằng tiên sinh nghĩ đến tâm tư chân thành của A

Mạch cũng chỉ vì một lòng vì nước mà tha thứ cho sự vô lễ của A Mạch lúc ban đầu.” A Mạch nói xong, trong thanh âm lại mang theo tiếng nức nở,

đầu đã cúi xuống rất thấp.

Từ Tĩnh thấy A Mạch nói như thế, chút bất mãn trong lòng đã hoàn toàn biến mất. Nhìn thấy hình dáng của A

Mạch lúc này, thậm chí tâm tư lay động mà nói: “A Mạch cũng là một mảnh

chân tình vì nước vì dân, lão phu thông cảm được mà.”

A Mạch thiếu chút nữa cảm động đến

rơi nước mắt, lại thi lễ. Lúc này Từ Tĩnh dùng tay nâng A Mạch dậy, nói: “Tráng sĩ, xin đứng lên, Từ Tĩnh chịu không nổi đại lễ như vậy.”

A Mạch vừa nghe ông ta thay đổi cách

xưng hô từ tiểu tử một đường lên đến tráng sĩ, trong lòng liền có chút

đắc ý, tìm nơi sạch sẽ trên ống tay áo lau lau khóe mắt, nói: “Ta cùng

Đường giáo úy đã giao ước, hắn tiến đến Dự Châu cảnh báo, còn ta chạy

tới Thái Hưng cầu cứu. Nhưng nay cả thành Thái Hưng cũng đã bị vây, ta

chỉ còn cách chạy tới Thanh Châu cầu cứu, còn thỉnh tiên sinh trợ giúp

ta.”

“Thỉnh tráng sĩ cứ nói.”

A Mạch lấy tấm huy hiệu thiếu úy bằng đồng mà Đường Thiệu Nghĩa giao cho nàng, dùng hai tay đưa cho Từ Tĩnh,

nói: “Đây là tín vật của Đường giáo úy, dùng vật này đi Thanh Châu cầu

kiến thủ thành, A Mạch muốn mời tiên sinh thay A Mạch đi Thanh Châu.”

“Nhưng –”

“Tiên sinh, xin nghe A Mạch nói hết, A Mạch sẽ hộ tống tiên sinh tới Thanh Châu, sau đó lập tức chạy tới Dự

Châu,” A Mạch dùng tay lau lệ, thần sắc bi tráng nói: “Đường giáo úy đối A Mạch có ơn cứu mạng, A Mạch tất phải liều chết đi theo Đường giáo úy. A Mạch vốn mồm miệng vụng về, nói không rõ tình hình chiến sự, sợ không thuyết phục được thủ thành Thanh Châu dẫn binh tới cứu, cho nên phải

cầu tiên sinh giúp ta.”

Từ Tĩnh hình như có do dự, cúi đầu

nhìn huy hiệu bằng đồng dính máu trong tay, lại ngẩng đầu khó xử nhìn A

Mạch, rốt cuộc hiên ngang lẫm liệt gật đầu nói: “Tráng sĩ yên tâm, Từ

Tĩnh nhất định xin dùng ba tấc lưỡi thuyết phục Thanh Châu phát binh đi

cứu Dự Châu thoát khỏi nguy cấp.”

Hai người lại hướng về nhau thi lễ,

sau đó mới đứng thẳng dậy, đều là vẻ mặt bi tráng, thật chân thành cầm

lấy tay nhau, bốn mắt đều đẫm lệ. Đến giữa trưa, xe la dừng lại ở nhà

trọ, A Mạch cùng Từ Tĩnh nắm tay nhau cùng bước xuống, khiến lão Trương

sợ ngây người, miệng há rộng đến nỗi có thể nhét vừa được một con ngỗng. Ông ta thừa dịp A Mạch không ở trước mặt, dùng ám hiệu cứa ngang cổ,

vụng trộm hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, thế nào mà ngài lại cùng sơn tặc bắt

tay nhau rồi?”

Từ Tĩnh liếc mắt nhìn A Mạch ở phía

xa xa, trên mặt lộ ra vẻ tươi cười thâm sâu khó lường, muốn nói cái gì

đó, nhưng đột nhiên ý thức được lão Trương bên người bất quá chỉ là một

tên ngu dân trong núi, nếu muốn nói cho ông ta hiểu khác gì đem đàn gảy

tai trâu, vì thế chỉ nhàn nhã liếc mắt nhìn ông ta một cái, khinh thường nói: “Đánh xe của người đi, quản nhiều chuyện như vậy làm gì? Lão phu

tất có đạo lý của mình!”

Từ Tĩnh cùng A Mạch cùng nhau đồng

hành trên một con đường, mặc dù mỗi người một tâm tư, nhưng vẫn ở chung

hòa hợp. Đi đến buổi chiều ngày thứ ba, ngoài xe có tiếng vó ngựa dần

đến gần. Bên trong xe, cả hai người đều nhíu mày, bởi vì từ khi chiến

loạn bắt đầu, trên đường rất ít gặp được người đi đường, lại hiếm khi

thấy người cưỡi ngựa là khách thương(3). Từ Tĩnh khẽ hé mở màn xe nhìn

ra bên ngoài, rồi quay lại, trên mặt liền ngưng trọng.

“Là thám báo.” Từ Tĩnh nói.

A Mạch sắc mặt có chút không tốt, đã

có thám báo xuất hiện ở vùng phụ cận, như vậy nhất định là có quân đội ở gần đây, chỉ có điều không biết là quân Bắc Mạc hay là quân Nam Hạ.

Chẳng lẽ người Bắc Mạc lại đến nhiều như vậy, định xâm chiếm toàn bộ

Giang Bắc hay sao?

Từ Tĩnh cũng đã là nhận ra đây là

thám báo của Nam Hạ, nhưng ông ta cũng không hề cảm thấy hưng phấn. Nếu

nói mặt sau cũng là quân đội Thanh Châu, như vậy ông ta đi Thanh Châu

cũng hoàn toàn là vô nghĩa sao?

Hai người đều lo lắng không thôi, một lát sau, tên thám báo lúc nãy lại quay trở về. Chưa đến nửa canh giờ,

phía trước có hơn mười kỵ mã hướng về phía xe la bọn họ phi tới như bay.

“A Mạch, những người này đúng là binh mã của Thanh Châu” Từ Tĩnh thấp giọng nói, dừng một chút lại nói

tiếp,“Ngươi cần phải nói chuyện thật cẩn thận, trăm ngàn lần không thể

để cho bọn họ tưởng lầm chúng ta là mật thám của Bắc Mạc, nếu ngươi

không làm được, chi bằng giả bộ như là con cháu của ta, chờ sau khi

chúng ta có cơ hội gặp lại Đường giáo úy rồi sẽ giải thích –”

“A Mạch hiểu!” A Mạch nói, nàng trong lòng mơ hồ đoán được Từ Tĩnh muốn lợi dụng nàng và tin tức từ Hán Bảo

để đi qua nơi này, nhưng cũng không nói toạc ra, chỉ tỏ vẻ phó thác hết

thảy cho Từ Tĩnh lo liệu.

Quả nhiên, hơn mười kỵ binh kia đều

tiến tới bao vây lấy xe la của bọn họ, một tên lính dùng mũi thương gẩy

màn xe ra, quát: “Xuống xe!”

Từ Tĩnh cùng A Mạch vội vàng xuống

xe, Từ Tĩnh lấy tấm huy hiệu bằng đồng của Đường Thiệu Nghĩa trong tay

nải ra, giơ lên cao quá đỉnh đầu, lớn tiếng nói: “Chúng ta chịu sự ủy

thác của giáo úy thành Hán Bảo Đường Thiệu Nghĩa, có việc quân tình khẩn cấp cầu kiến thủ thành Thanh Châu, mong quân gia dẫn kiến(4).”

Thám báo tiếp nhận tấm huy hiệu bằng

đồng, nhận ra đó là của quân Nam Hạ, vừa cẩn thận đánh giá Từ Tĩnh cùng A Mạch một chút, rồi quay sang phân phó những người khác: “Trước cứ trói

chúng lại, đợi ta đi bẩm báo tướng quân.” Nói xong liền quay ngựa phi

đi.

Đi được hơn hai mươi dặm, liền gặp

được quân đội của Nam Hạ đang trên đường từ Thanh Châu tới Thái Hưng chi viện. Lĩnh quân là một viên tướng quân trẻ chỉ chừng hơn hai mươi tuổi, một thân ngân giáp(5), thoạt nhìn thật là tuấn mỹ. Đúng là thủ thành

Thanh Châu, vị “Bại hoại tướng quân”, Thương Dịch Chi.

Hắn vốn ở trong kinh thành nổi tiếng

ăn chơi trác táng. Vốn xuất thân trong một gia đình hiển hách, lẽ ra hắn không phải lưu lạc đến Thanh Châu. Nhưng vì phạm phải việc nam nữ, chọc cho phụ thân hắn vốn xuất thân binh nghiệp náo loạn cả lên, vì thế liền bị sung quân đến Thanh Châu.

Một kẻ ăn chơi trác táng thì biết gì

về quân đội đây? Tên Thương Dịch Chi này đến Thanh Châu được đặt biệt

danh là “Tứ không”: không quân trang, không ở trong quân doanh, không

thao luyện, không nghiên cứu trận pháp. Mỗi ngày mặc một thân cẩm y

trắng gọn gàng, hết ngâm thơ lại nói chuyện trăng gió. Dân chúng ở Thanh Châu vừa tiễn bước “Bao cỏ tướng quân” sau lại nghênh đón “Bại hoại

tướng quân” là hắn. Đừng nói dân chúng Thanh Châu độc mồm độc miệng,

ngươi đã gặp qua kẻ nào ngay cả cận vệ cũng nhất định phải chọn những

chàng trai có bộ dáng xinh đẹp, thân thể trẻ trung chưa?

——————

Chú thích:

(1) tài kinh thiên vĩ: tài cao sánh ngang với trời

(2) tuẫn quốc: chết vì nước

(3) khách thương: người buôn bán

(4) dẫn kiến: dẫn đi gặp mặt

(5) ngân giáp: áo giáp bạc