Bản thân sự cân bằng đã là thiện
Aomame trải tấm thảm tập yoga bằng bọt biển màu xanh lam nàng mang theo lên trên tấm thảm trong phòng. Sau đó nàng bảo người đàn ông cởi áo. Người đó xuống khỏi giường, cởi sơ mi ra. Thân hình ông ta khi cởi trần còn to lớn hơn lúc mặc áo, ngực dày dặn, cơ bắp cuồn cuộn, không có lấy một múi thịt thừa lỏng lẻo nào. Nhìn bề ngoài, đây là một cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh.
Theo chỉ dẫn của Aomame, ông ta nằm sấp xuống tấm thảm tập yoga. Trước tiên, Aomame đặt đầu ngón tay lên cổ tay ông ta, bắt mạch. Mạch đập sâu và dài.
“Bình thường ông có tập môn thể thao nào không?” Aomame hỏi.
“Không tập gì cả. Chỉ hít thở thôi.”
“Chỉ hít thở thôi?”
“Hơi khác với kiểu hít thở bình thường một chút,” người đàn ông nói.
“Có phải kiểu hít thở lúc nãy ông thực hiện trong bóng tối không? Vận dụng cơ bắp toàn thân, liên tục hít thở sâu?”
Người đàn ông nằm úp mặt, khẽ gật đầu.
Aomame thấy hơi khó hiểu. Đây đúng là một kiểu hít thở mạnh, tương đối cần thể lực, nhưng có thể chỉ dựa vào hít thở mà duy trì được thân thể cường tráng rắn chắc như vậy sao?
“Việc tôi sắp làm sẽ kèm theo cảm giác khá đau đớn,” Aomame nói bằng giọng đều đều không đổi, “Nếu không đau thì không có hiệu quả. Có điều, mức độ đau đớn có thể điều tiết được. Vì vậy, nếu ông thấy đau thì không nên cố chịu đựng, cứ kêu lên.”
Người đàn ông ngập ngừng một chút, rồi nói: “Nếu có cái đau mà tôi chưa từng trải nghiệm thì tôi cũng muốn xem nó như thế nào.” Trong giọng điệu của ông ta, có thể nghe ra chút ý vị châm biếm.
“Đối với ai cũng thế thôi, đau đớn đều chẳng phải chuyện vui vẻ gì.”
“Có điều, liệu pháp có kèm theo đau đớn thì hiệu quả sẽ tốt hơn, phải không? Chỉ cần sự đau đớn có ý nghĩa là tôi có thể chịu đựng được.”
Trong bóng tối mờ mờ, Aomame tự cho mình có một vẻ mặt thoáng qua rồi lập tức biến mất, kế đó nàng nói: “Tôi hiểu rồi, chúng ta xem tình hình rồi tính.”
Như mọi khi, Aomame bắt đầu từ việc thư giãn xương bả vai. Khi chạm tay vào cơ thể người đàn ông, trước tiên nàng chú ý đến độ dẻo dai của cơ bắp. Những bắp thịt tráng kiện, đẹp đẽ, hoàn toàn khác biệt về mặt kết cấu với những cơ bắp mệt mỏi cứng đờ của đám người thành thị nàng vẫn thường tiếp xúc ở câu lạc bộ thể hình. Nhưng đồng thời nàng cũng có một cảm giác mạnh mẽ rằng “dòng chảy” tự nhiên của nó bị thứ gì đó chặn lại, giống như dòng sông bị những khúc gỗ trôi và rác rến tạm thời làm tắc nghẽn vậy.
Aomame dùng khuỷu tay làm điểm tựa, vặn xoắn cơ bắp chỗ bả vai của người đàn ông từ dưới lên trên. Mới đầu nàng làm chầm chậm, sau đó thì thực sự dồn sức. nàng hiểu ra ông ta đang cảm thấy đau đớn, đau đớn dữ dội, khiến cho là ai cũng khó lòng không rên rỉ. Nhưng người này vẫn im lặng. Nhịp thở không hề rối loạn, thậm chí còn không cả nhíu mày. Sức chịu đựng ghê thật. Aomame nghĩ. Nàng quyết định thử xem người này có thể chịu đựng đến mức độ nào, bèn không kiềm chế nữa, tiếp tục dồn sức mạnh hơn, cho đến khi khớp xương vai kêu khục một tiếng nặng nề. Nàng có cảm giác như vừa bẻ ghi đường ray xe lửa. Hơi thở của người đàn ông đột ngột dừng lại một thoáng, rồi lập tức khôi phục lại nhịp đều đặn, bình thản.
“Xung quanh xương bả vai bị tắc nghẽn nghiêm trọng,” Aomame giải thích, “Nhưng vừa loại trừ được chỗ tắc rồi. Dòng chảy đang hồi phục.”
Nàng ấn ngón tay vào mé bên trong xương bả vai, sâu đến tận đốt ngón tay thứ hai. Cơ bắp ở đây vốn rất mềm dẻo. Sau khi chỗ tắc nghẽn đã bị loại trừ, chúng liền khôi phục ngay lại trạng thái bình thường.
“Tôi thấy dễ chịu hơn nhiều,” người đàn ông khẽ nói.
“Hẳn phải khá đau đớn.”
“Chưa đến mức không thể chịu được.”
“Tôi cũng khá giỏi chịu đau, nhưng nếu ai làm vậy với tôi, sợ rằng tôi cũng phải kêu lên một tiếng.”
“Đau đớn, trong nhiều trường hợp, sẽ bị triệt tiêu hoặc giảm nhẹ bởi một nỗi đau khác. Cái gọi là cảm giác xét cho cùng chỉ là tương đối.”
Aomame đặt tay lên xương bả vai trái của ông ta, dùng đầu ngón tay lần tìm các cơ bắp, phát hiện vai trái dường như cũng ở trạng thái tương đồng với phía vai phải khi nãy. Thử xem rốt cuộc tương đối đến mức độ nào. “Tiếp sau đây chúng ta sẽ làm bên trái. Có lẽ sẽ đau như bên phải đấy.”
“Nhờ cô cả. Không cần lo cho tôi.”
“Vậy tôi không cần nương tay nhé?”
“Hoàn toàn không cần thiết.”
Aomame theo trình tự vừa nãy, điều chỉnh lại các khớp xương và cơ bắp xung quanh xương bả vai trái. Theo đúng như lời ông ta nói, nàng không nương tay. Một khi đã quyết định, Aomame không do dự gì nữa, dứt khoát đi theo con đường ngắn nhất. Nhưng phản ứng của người đàn ông này còn bình thản hơn lúc nàng làm với vai bên phải. Ông ta chỉ khẽ phát ra một tiếng nuốt khan sâu trong cổ họng, tựa hồ chấp nhận nỗi đau ấy như một lẽ đương nhiên. Được thôi, tôi cũng muốn xem ông chịu được đến mức nào, Aomame nghĩ.
Aomame lần lượt thư giãn các cơ bắp toàn thân cho người đàn ông. Tất cả các điểm quan trọng đều đã được ghi vào bản danh sách trong đầu nàng, chỉ cần máy móc làm theo trình tự là được. Như một nhân viên bảo vệ giỏi giang và dũng cảm cầm đèn pin đi tuần tra ban đêm trong tòa nhà vậy.
Mỗi cơ bắp của ông ta đều hoặc ít hoặc nhiều bị tắc nghẽn, như một vùng đất bị thiên tai nghiêm trọng phá hoại, sông ngòi nghẽn ứ, đê điều đổ vỡ. Người thường mà bị như vậy thì chắc hẳn đã chẳng đứng lên nổi, thậm chí còn khó lòng hít thở bình thường. Cơ thể khỏe mạnh và ý chí kiên cường đã chống đỡ cho người đàn ông này. Cho dù ông ta đã làm bao nhiêu hành vi bỉ ổi xấu xa, song Aomame không thể phủ nhận niềm ngưỡng mộ của mình với tư cách một người chuyên nghiệp trước khả năng âm thầm chịu đựng đau đớn dữ dội của ông ta.
Nàng khiến những cơ bắp ấy lần lượt căng cứng, buộc chúng phải chuyển động, vặn vẹo và kéo giãn chúng đến cực hạn. Mỗi lần khớp xương đều phát ra một tiếng “cục” trầm đục. Nàng ý thức được đây gần như là một sự tra tấn. Từ trước đến giờ nàng từng làm công việc thư giãn cơ bắp này cho nhiều vận động viên thể thao, toàn là những người đàn ông rắn rỏi đã quen sống chung với đau đớn thể xác. Nhưng ngay cả người rắn rỏi nhất trong số họ cũng chỉ cần rơi vào tay Aomame thì nhất định đến lúc nào đó phải ré lên đau đớn hoặc phát ra âm thanh tương tự như hét. Có kẻ còn không kiềm chế được mà đái dầm tại chỗ. Nhưng người này không kêu rên một tiếng. thật ghê gớm. Mặc dù vậy, trên cổ ông ta rịn ra mồ hôi, nàng đoán được ông ta đau đớn đến chừng nào. Bản thân nàng cũng rịn ra một lớp mồ hôi mỏng.
Mất khoảng ba mươi phút để làm giãn cơ bắp sau lưng người đàn ông. Sau khi hoàn thành phần này, Aomame dừng lại để nghỉ ngơi một chút, lấy khăn bông lau những giọt mồ hôi rỉ ra trên trán.
Thật kỳ lạ, Aomame thầm nhủ. Mình đến đây là để giết kẻ này. Trong túi kia là chiếc dùi đục đá nhọn hoắt đặc chế của mình. Chỉ cần hướng đầu mũi nhọn vào điểm đặc biệt trên gáy ông ta, vỗ nhẹ vào tay nắm bằng gỗ một cái là xong. Đối phương thậm chí còn không hiểu chuyện gì xảy ra với mình thì đã tiêu đời, chuyển dịch sang một thế giới khác. Bằng cách ấy, thân thể ông ta sẽ được giải phóng khỏi mọi đau đớn. Vậy mà giờ mình lại đang dốc hết sức ra giúp ông ta giảm nhẹ nỗi đau đớn trong thế giới hiện thực này.
Có lẽ vì đây là công việc mình được giao, Aomame nghĩ. Chỉ cần có công việc cần phải hoàn thành trước mặt, mình sẽ dốc hết sức lực hoàn thành nó. Đây là tính cách của mình. Nếu giao cho mình việc điều chỉnh lại những cơ bắp có vấn đề, mình sẽ làm hết sức. Nếu không thể không giết một ai đó, và có lý do chính đáng để làm việc đó, mình sẽ dồn hết sức lực để làm.
Thế nhưng, mình không thể cùng lúc hoàn thành cả hai việc. Mục đích của chúng mâu thuẫn nhau, cần những phương pháp không thể dung hợp với nhau. Vì vậy, mỗi lần chỉ có thể hoàn thành một trong hai việc. nói tóm lại, lúc này mình đang dốc sức khiến cơ bắp của kẻ này khôi phục lại trạng thái bình thường. Mình tập trung tinh thần, dốc toàn bộ sức lực để hoàn thành việc này. Việc kia cần phải đợi xong việc này hẵng tính.
Đồng thời, Aomame không nén nổi sự hiếu kỳ. Chứng bệnh lạ kỳ bất bình thường mà người đàn ông này mắc phải, những cơ bắp khỏe đẹp bị nó làm cho tắc nghẽn một cách nghiêm trọng; thân thể tráng kiện cùng ý chí kiên cường giúp ông ta chịu được sự đau đớn kịch liệt mà ông ta gọi là “cái giá phải trả cho ân huệ của Trời”: tất cả những thứ ấy kích thích trí tò mò của nàng. Mình có thể làm gì với con người này? Cơ thể ông ta sẽ có phản ứng như thế nào? Aomame muốn tận mắt nhìn thấy điều đó. Đây là sự tò mò mang tính nghề nghiệp, đồng thời là sự tò mò của cá nhân nàng. Huống hồ, nếu giết chết đối phương ngay lúc này, mình sẽ phải lập tức đi khỏi đây. Công việc kết thúc quá sớm, hai gã ở phòng bên cạnh nhất định sẽ sinh nghi. Vì trước đó mình đã nói với chúng ít nhất phải một tiếng đồng hồ mới xong việc được.
“Chúng ta xong một nửa rồi. Giờ sẽ làm nốt nửa còn lại. Phiền ông lật người lại, nằm ngửa lên được không?” Aomame nói.
Người đàn ông chầm chậm xoay người lại, ngửa mặt lên trên, trông giống như xác một loài sinh vật biển khổng lồ bị sóng đánh lên bờ cát.
“Đúng là cảm giác đau đang giảm đi,” người đàn ông thở hắt ra một hơi dài, nói. “Những lần trị liệu trước đây của tôi không bao giờ được hiệu quả thế này.”
“Cơ bắp của ông bị tổn thương,” Aomame nói. “Tôi không rõ nguyên nhân, nhưng tổn thương tương đối nghiêm trọng. giờ chúng ta cần cố gắng giúp những phần bị tổn thương khôi phục lại trạng thái ban đầu. Việc này không dễ, lại còn đau đớn nữa. Nhưng vẫn có chút hiệu quả. Vì tố chất cơ bắp của ông rất tốt, mà ông cũng có thể chịu được đau đớn. Nhưng xét cho cùng đây chỉ là liệu pháp trước mắt, không thể giải quyết vấn đề một cách triệt để. Nếu không làm rõ được nguyên nhân căn bệnh thì tình trạng tương tự sẽ tiếp tục xảy ra.”
“Tôi hiểu. Chẳng thể giải quyết được gì. Bệnh tình cứ tái phát đi tái phát lại, mỗi lần tình trạng một xấu hơn. Nhưng dẫu chỉ là biện pháp tạm thời, song chỉ cần ít nhiều giảm nhẹ được cái đau trước mắt thì tôi cũng tạ ơn trời đất. Có lẽ cô không hiểu được điều này đáng quý đến chừng nào đâu. Tôi thậm chí đã nghĩ đến việc dùng moócphin. Nhưng đó là chất gây nghiện, tôi không muốn dùng. Sử dụng chất gây nghiện trong thời gian dài sẽ phá hoại chức năng của não bộ.”
“Chúng ta tiếp tục thôi, Aomame nói. “Vẫn như cũ, tôi không cần phải nương tay chứ?”
“Còn phải nói ư,” người đàn ông trả lời.
Aomame gạt bỏ những suy nghĩ vơ vẩn trong đầu, chuyên tâm vào các cơ bắp của người đàn ông. Kết cấu của các cơ bắp trên cơ thể người này hằn in sâu trong ký ức nghề nghiệp của nàng: từng cơ bắp có công năng gì, nối với những khúc xương nào, có tính chất gì đặc biệt, nhạy cảm ra sao. Aomame lần lượt kiểm tra từng khối cơ bắp và khớp xương, lắc lư vặn vẹo chúng, khiến chúng căng ra một cách hiệu quả. Nàng tựa như viên phán quan tòa án tôn giáo nồng nhiệt với công việc đang tỉ mỉ thí nghiệm từng điểm đau đớn trên cơ thể nạn nhân của mình.
Ba mươi phút sau, hai người đầm đìa mồ hôi, thở hổn hển, như đôi tình nhân vừa hoàn thành xong cuộc làm tình nồng nhiệt đến diệu kỳ. Suốt một lúc lâu, người đàn ông không nói năng gì, còn Aomame không có gì để nói.
“Tôi không muốn nói quá lên,” người đàn ông rốt cuộc cũng cất tiếng, “Có điều tôi cảm thấy từng phần trên cơ thể mình như đều được thay mới vậy.”
Aomame nói: “Tối nay có lẽ sẽ xuất hiện phản ứng ngược. Đến nửa đêm, cơ bắp có thể sẽ co giật dữ dội, thậm chí kêu lên thành tiếng. Nhưng ông không phải lo, sáng sớm mai là sẽ khôi phục lại như thường.”
Nếu ông còn có sáng sớm mai, nàng thầm nghĩ.
Người đàn ông ngồi khoanh chân trên tấm thảm yoga, hít thở sâu mấy lần, tuồng như đang kiểm tra lại trạng thái cơ thể mình, sau đó nói: “Hình như đúng là cô có tài năng đặc biệt thật.”
Aomame vừa lau mặt bằng khăn bông vừa nói: “Tôi chẳng qua chỉ làm việc thực tế thôi. Hồi đại học, tôi học về cấu tạo và chức năng của cơ bắp, đồng thời mở rộng hiểu biết qua thực tiễn. Tôi đã tiến hành nhiều cải tiến nhỏ về kỹ thuật, tự soạn ra một hệ thống của riêng mình. Tôi chỉ làm những việc hợp lẽ và rõ ràng. ‘Chân lý’ ở đây về cơ bản là những thứ có thể nhìn thấy được bằng mắt thường, có thể chứng thực được. Đương nhiên nó cũng kèm theo một chút đau đớn nhất định.”
Người đàn ông mở mắt, nhìn Aomame với vẻ khá hứng thú. “Vậy ra là cô tin như vậy.”
“Ý ông là…?” Aomame hỏi.
“Rằng chân lý xét cho cùng là những thứ có thể nhìn được bằng mắt thường, có thể chứng thực được.”
Aomame hơi vểnh môi lên. “Tôi không nói tất cả chân lý đều như vậy. Tôi chỉ nói rằng trong lĩnh vực chuyên nghiệp của tôi thì như thế. Đương nhiên, nếu trong mọi lĩnh vực đều như vậy thì mọi việc sẽ trở nên đơn giản và dễ hiểu hơn nhiều.”
“Không có khả năng đó đâu,” người đàn ông nói.
“Tại sao?”
“Đại đa số người không mong cầu thứ chân lý có thể chứng thực được. Trong hầu hết trường hợp, đúng như cô nói, chân lý luôn đi kèm với nỗi đau đớn kịch liệt. Mà gần như tất cả mọi người đều không mong cầu thứ chân lý đi kèm với đau đớn ấy. Con người ta cần những câu chuyện đẹp đẽ, vui vẻ, ít nhiều có thể khiến họ cảm thấy sự tồn tại của mình có ý nghĩa gì đó. Chính vì lẽ đó tôn giáo mới ra đời.”
Người đàn ông xoay xoay cổ, rồi tiếp tục nói.
“Nếu học thuyết A khiến sự tồn tại anh ta hoặc cô ta có vẻ như có ý nghĩa sâu xa nào đó thì đó chính là chân lý với họ. Nếu học thuyết B khiến sự tồn tại của họ có vẻ yếu ớt và nhỏ bé, học thuyết ấy sẽ là thứ giả dối rởm đời. Hết sức rõ ràng. Nếu có người tuyên bố học thuyết B chính là chân lý, người đời hẳn sẽ căm ghét y, coi thường y, thậm chí trong một số trường hợp còn công kích y nữa. Dù học thuyết B có hợp logic, có thể chứng minh được đi chăng nữa nhưng đối với họ điều ấy chẳng có ý nghĩa gì hết. Hầu hết mọi người đếu phủ định sự tồn tại yếu ớt và nhỏ bé của mình, gắng sức loại bỏ ý nghĩ ấy ra khỏi đầu, chỉ có vậy họ mới duy trì được sự lành mạnh về mặt tinh thần.”
“Nhưng, thân xác con người… tất cả mọi thân xác… mặc dù có những khác biệt rất nhỏ, đều nhỏ bé và yếu ớt. Điều này há chẳng phải không cần nói thì ai cũng tự hiểu hay sao?” Aomame hỏi.
“Hoàn toàn chính xác,” người đàn ông đáp. “Tuy có những khác biệt rất nhỏ, nhưng mọi thân xác đều nhỏ bé và yếu ớt, sẽ sớm có ngày tan rã, tiêu vong. Đây là chân lý không gì lay chuyển nổi. Thế nhưng, còn tinh thần con người thì sao?”
“Tôi cố gắng hết mức để không nghĩ đến tinh thần.”
“Tại sao?”
“Vì không cần thiết.”
“Tại sao lại không cần thiết nghĩ về tinh thần? Tạm không nói đến việc nó có tác dụng thực tế gì hay không, nhưng suy tư về thế giới tinh thần của mình chẳng lẽ không phải là một trong những việc không thể không làm của nhân loại hay sao?”
“Bởi vì tôi có tình yêu,” Aomame trả lời thẳng thắn.
Hả, mình đang làm gì vậy? Aomame nghĩ. Sao lại nói chuyện tình yêu với kẻ mà mình sắp ra tay sát hại?
Như thể có cơn gió lướt qua mặt hồ phẳng lặng, gương mặt người đàn ông thoáng hiện một thứ giống như nụ cười, thể hiện một cảm xúc tự nhiên, có thể nói là thân thiện.
“Ý cô là, có tình yêu là đủ rồi?” ông ta hỏi.
“Đúng thế.”
“Tình yêu mà cô nói có đối tượng là một người xác định, phải không?”
“Đúng thế,” Aomame nói, “Dành cho một người đàn ông cụ thể.”
“Thân xác nhỏ bé và yếu ớt, cùng với tình yêu tuyệt đối không có bóng tối phủ che…” ông ta nói khẽ. Sau một thoáng ngừng, ông ta nói thêm, “Xem ra hình như cô không cần đến tôn giáo.”
“Có lẽ là không.”
“Bởi vì, trạng thái của cô lúc này có thể nói là một thứ tôn giáo được rồi.”
“Vừa nãy ông có nói tôn giáo không mang đến chân lý mà mang tới một thứ giả tưởng đẹp đẽ. Vậy còn giáo đoàn của ông thì sao?”
“Nói thật, tôi không cho rằng việc mình làm là hành vi tôn giáo,” người đàn ông đáp. “Việc tôi làm chỉ là lắng nghe những giọng nói đó rồi truyền đạt lại cho mọi người. Duy chỉ mình tôi nghe được thứ giọng nói ấy, đây là sự thực trăm phần trăm. Thế nhưng, tôi không có cách nào chứng minh được những điều các giọng đó nói là chân lý. Tất cả những gì tôi có thể làm là lấy mình làm phương tiện chuyển hóa chút ân huệ trời cho đi kèm với chúng thành thực thể mà thôi.”
Aomame khẽ cắn môi, buông chiếc khăn bông xuống. Nàng rất muốn hỏi ông ta đang nói về thứ ân huệ gì, nhưng lại thôi. Câu chuyện này sẽ kéo dài mãi không ngừng. Nàng vẫn còn việc quan trọng buộc phải hoàn thành.
“Phiền ông lật người lại, úp mặt xuống được không? Tôi sẽ giúp ông thư giãn nốt phần cơ thịt ở cổ,” Aomame nói.
Người đàn ông lại duỗi sấp thân hình vĩ đại xuống tấm thảm tập yoga, hướng phần gáy to dày về phía Aomame.
“Phải nói là cô sở hữu một xúc giác thần diệu.”
“Xúc giác thần diệu?”
“Những ngón tay có thể phát ra sức mạnh phi thường. Một giác quan nhạy bén có thể tìm thấy những điểm đặc thù trên cơ thể người. Đây là một dạng thiên tư đặc biệt, không phải là thứ nhờ học hỏi và tập luyện mà có được. Tôi cũng có một thiên tư, tuy rằng thuộc loại rất khác, nhưng về bản chất thì chẳng khác. Có điều, mọi ân huệ trời cho đều thế cả, con người ta phải trả một cái giá nhất định cho thiên phú của mình.”
“Tôi chưa bao giờ nghĩ thế,” Aomame nói, “Chẳng qua là tôi phát triển được kỹ thuật của mình thông qua học tập và không ngừng rèn luyện. Không có ai ban cho tôi cái gì cả.”
“Tôi không có ý tranh luận với cô. Có điều, tốt nhất cô nên nhớ kỹ. Các vị thần ban tặng, nhưng các vị thần cũng thu hồi. Tuy cô không ý thức rằng cái mình có thật ra là được ban tặng, song các vị thần thì nhớ rất kỹ những gì họ đã ban tặng cho cô. Cô hãy sử dụng một cách trân trọng hết mực cái tài năng được ban tặng ấy.”
Aomame nhìn mười ngón tay mình, sau đó đặt chúng lên gáy người đàn ông, tập trung ý thức vào đầu ngón tay. Các vị thần ban tặng, các vị thần cũng thu hồi.
“Sẽ xong ngay thôi. Đây là bước cuối cùng rồi,” nàng nói với người đàn ông bằng giọng khô khốc.
Xa xa hình như có tiếng sấm. Nàng ngẩng đầu lên nhìn ra phía ngoài. Không thấy gì, chỉ có bầu trời tăm tối. Nhưng âm thanh ấy lại vang lên lần nữa, dội đi dội lại trong gian phòng tĩnh lặng.
“Sắp mưa rồi,” người đàn ông cất tiếng nói bằng chất giọng không xúc cảm.
Aomame đặt tay lên cái cổ to dày của ông ta, tìm kiếm điểm đặc biệt đó. Công việc này cần đến năng lực tập trung đặc biệt. Nàng nhắm mắt lại, nín thở, nghiêng tai lắng nghe những dòng chảy bên trong và mạch máu ở chỗ đó. Đầu ngón tay nàng cố thu gom những thông tin chi tiết từ độ đàn hồi của da và nhiệt độ cơ thể. Đó là một điểm độc nhất vô nhị, và cực kỳ nhỏ bé. Với một số người, nàng có thể tìm được điểm đó dễ dàng, với một số người khác lại rất khó. Người được gọi là Lãnh Tụ này hiển nhiên thuộc loại thứ hai. Nếu phải so sánh thì việc này giống như tìm một đồng xu trong căn phòng tối đen, đồng thời phải chú ý không gây ra tiếng động nào. Mặc dù vậy, cuối cùng Aomame vẫn tìm được. Nàng đặt ngón tay ở đó, khắc sâu cảm giác và vị trí chuẩn xác của điểm ấy vào trong não, như kiểu đánh dấu trên bản đồ, một năng lực đặc biệt mà nàng được ban cho.
“Làm ơn giữ nguyên tư thế như vậy,” Aomame nói với người đàn ông đang nằm sấp, rồi thọc tay vào cái túi thể thao đặt bên cạnh, lấy chiếc hộp cứng nhỏ đựng cái dùi đục đá nhỏ ra.
“Sau gáy vẫn còn một chỗ tắc nghẽn,” Aomame nói bằng giọng điềm tĩnh, “Chỗ này chỉ dùng ngón tay thôi thì không đủ sức. Nếu có thể loại trừ được chỗ tắc nghẽn này, đau đớn sẽ thuyên giảm đi nhiều. Tôi muốn châm vào đây một mũi kim. Đây là vị trí rất nhạy cảm, nhưng trước đây tôi đã thực hiện rất nhiều lần rồi, không có sai sót đâu. Ông thấy sao?”
Người đàn ông thở ra một hơi dài. “Trăm sự nhờ cô. Miễn sao tiêu trừ được cái đau tôi đang cảm thấy đây thì bất kể cách nào tôi cũng đều chấp nhận.”
Nàng lấy cái dùi đục nước đá ra khỏi hộp, bỏ nút bấc cắm trên đầu. Đầu mũi kim vẫn sắc nhọn chết người như mọi khi. Aomame cầm cái dùi ở tay trái, ngón trỏ tay phải lần dò điểm vừa tìm thấy lúc nãy. Đúng rồi, chính là điểm này. Nàng hướng mũi kim vào đó, hít sâu một hơi. Việc còn lại chỉ là đập tay phải xuống tay cán dùi, như một chiếc búa, để mũi kim cực nhỏ rơi thẳng và sâu vào điểm ấy. Mọi sự sẽ kết thúc.
Thế nhưng, có thứ gì đó ngăn Aomame lại. Không hiểu tại sao, nàng chưa thể đập nắm tay đã giơ lên xuống. Vậy là xong, Aomame nghĩ. Chỉ cần đập nhẹ một cái, mình có thể đưa kẻ này sang “phía bên kia”. Sau đó mình thản nhiên đi ra khỏi phòng này như chưa có chuyện gì xảy ra, thay đổi dung mạo và tên họ, bắt đầu cuộc đời mới với một tư cách khác. Mình có thể làm được. Không sợ hãi, cũng không áy náy lương tâm. Kẻ này đã gây ra nhiều tội ác ghê tởm, hắn ta đáng chết cả nghìn vạn lần. Nhưng không hiểu tại sao, nàng chưa thể làm thế được. Điều khiến tay nàng phải do dự là một mối ngờ vực khó bề nắm bắt song không dễ gì suy chuyển. Bản năng cảnh báo cho nàng biết, sự việc tiến triển quá thuận lợi.
Logic chẳng liên quan gì đến việc này. Aomame chỉ ý thức được rằng có gì đó không ổn. Có cái gì đó không tự nhiên. Mọi luồng sức mạnh và năng lực của nàng với những thành tố khác nhau va đập với nhau, tranh đấu kịch liệt bên trong nàng. Gương mặt nàng vặn vẹo ghê gớm trong bóng tối.
“Sao vậy?” Người đàn ông nói. “Tôi đang đợi cô đấy. Đợi cô hoàn thành nốt bước cuối cùng.”
Nghe đối phương nói vậy, Aomame hiểu ra lý do mình do dự. Người này biết. Ông ta biết mình sắp sửa làm gì với ông ta.
“Cô không phải do dự,” người đàn ông bình tĩnh nói. “Điều cô muốn cũng là điều tôi mong mỏi.”
Tiếng sấm tiếp tục ì ùng, nhưng không thấy tia chớp nào lóe lên. Chỉ có tiếng ầm ì như tiếng đại pháo ở phía xa. Chiến trường vẫn còn xa xăm. Người đàn ông tiếp tục nói:
“Đó mới là cách trị liệu hoàn mỹ nhất. Cô đã hết sức cẩn thận giúp tôi co giãn cơ bắp. Tôi thực lòng ngưỡng mộ kỹ thuật của cô. Nhưng như cô đã nói, đó chẳng qua chỉ là liệu pháp tạm thời. Nỗi đau của tôi đã đến mức nếu không cắt đứt được tận gốc sinh mạng tôi thì chẳng thể nào hóa giải được. Chỉ còn cách đi xuống tầng hầm mà ngắt cầu dao tổng. Cô sắp sửa giúp tôi làm việc ấy.”
Tay trái cầm dùi đục đá, mũi nhọn nhắm vào điểm đặc biệt trên gáy đối phương, tay phải giơ lên không, Aomame giữ nguyên tư thế ấy, không thể tiến thêm, cũng không thể lùi lại.
“Giả sử tôi muốn ngăn điều cô muốn làm lại, tôi có thể làm bất cứ lúc nào. Dễ như trở bàn tay,” người đàn ông nói. “Cô thử buông tay phải xuống đi.”
Aomame làm theo lời ông ta, thử buông tay phải xuống. Nhưng tay phải nàng không hề nhúc nhích, như bàn tay của một tượng đá, cánh tay bị đông cứng lại trên không trung.
“Mặc dù đó không phải là thứ tôi mong muốn, nhưng tôi lại có sức mạnh như vậy đấy. Được rồi, giờ tay phải của cô đã có thể cử động. Cô lại có thể khống chế mạng sống của tôi rồi.”
Aomame phát hiện ra tay phải của mình lại có thể hoạt động bình thường. Nàng nắm chặt tay lại rồi xòe ra. Hoàn toàn bình thường. Chắc là một dạng thuật thôi miên. Bất kể nó là gì, sức mạnh ấy cũng thật ghê gớm.
“Tôi được họ ban cho năng lực ấy. Nhưng để đổi lại, họ áp đặt rất nhiều đòi hỏi lên thân thể tôi. Ham muốn của họ trở thành ham muốn của tôi. Thứ ham muốn này vô cùng mãnh liệt, tôi không thể phản kháng lại được.”
“Bọn họ,” Aomame nói, “Có phải người Tí Hon không?”
“Thì ra cô cũng biết chuyện này. Tốt, như vậy thì không cần mất công giải thích.”
“Tôi chỉ biết cái tên đó thôi. Tôi không biết Người Tí Hon rốt cuộc là cái gì.”
“E rằng chẳng có ai biết Người Tí Hon rốt cuộc là ai là cái gì,” người đàn ông nói. “Người ta chỉ biết họ quả thực có tồn tại mà thôi. Cô đã đọc cuốn Cành vàng của Frazer[1] chưa?”
[1]J.G.Frazer (1854-1961): nhà nhân học, lịch sử tôn giáo học, dân tộc học nổi tiếng người Anh. Cành vàng (The Golden Bough) là tác phẩm nổi tiếng của ông.
“Chưa.”
“Một cuốn sách rất thú vị, dạy chúng ta nhiều điều. Ở một thời kỳ nào đó trong lịch sử - dĩ nhiên đây là chuyện của thời xa xưa - tại một số nơi trên thế giới, người ta có quy định rằng khi nhà vua trị vì hết một thời kỳ khoảng từ mười đến mười hai năm thì sẽ bị xử tử. Khi thời kỳ này kết thúc, mọi người ùa đến xử tử nhà vua. Đối với cộng đồng, điều này được cho là cần thiết. Bản thân nhà vua cũng vui vẻ đón nhận cái chết ấy. Phương pháp xử tử cần phải tàn nhẫn và đẫm máu. Bị giết theo cách ấy được coi là vinh dự lớn lao đối với kẻ làm vua. Tại sao vua lại bị buộc phải chết?
Bởi vì vào thời đó vua chính là người thay cho dân chúng ‘lắng nghe giọng nói’. Những người như thế tự nhận về mình việc làm cầu nối liên kết giữa họ và chúng ta. Sau một kỳ hạn nhất định, xử tử người lắng nghe âm thanh ấy là việc mà cộng đồng không thể không làm để duy trì sự cân bằng giữa sức mạnh của Người Tí Hon và tâm trí của những người sống trên thế gian này. Trong thế giới cổ đại, ‘thống trị’ và ‘lắng nghe tiếng nói của thần là đồng nghĩa’. Đương nhiên, ở một thời điểm nào đó trong lịch sử, chế độ này đã bị bãi bỏ, vua không bị xử tử nữa, vương vị trở thành thứ thế tục và thế tập. Cứ như thế, người ta không còn lắng nghe những giọng nói ấy nữa.”
Aomame vô thức xòe tay ra rồi lại nắm vào bàn tay phải đang giơ giữa không trung, lắng nghe người đàn ông nói.
Ông ta tiếp: “Cho đến nay, con người đã dùng rất nhiều cái tên khác nhau để gọi bọn họ. nhưng trong đại đa số trường hợp, họ không có tên. Đơn giản là họ tồn tại thôi. Người Tí Hon chỉ là một cách gọi cho thuận tiện. Hồi đứa con gái tôi còn rất nhỏ, khi dẫn họ tới, con bé đã gọi họ là Người Lùn Tí Hon. Tôi sửa lại thành Người Tí Hon, cho thuận miệng hơn.”
“Vậy là ông trở thành vua.”
Người đàn ông hít mạnh một hơi qua lỗ mũi, giữ không khí trong phổi một lúc, rồi chầm chậm thở ra. “Tôi không phải là vua, mà là ‘người lắng nghe âm thanh’.”
“Và giờ ông đang mong muốn được xử tử một cách tàn khốc?”
“Không, không nhất thiết phải xử tử một cách tàn khốc. Giờ là năm 1984, nơi này là trung tâm một thành phố lớn. Không cần quá đẫm máu. Chỉ cần tước đoạt tính mạng của tôi một cách gọn gàng sạch sẽ là được rồi.”
Aomame lắc đầu, thả lỏng cơ bắp toàn thân. Đầu mũi kim vẫn nhắm vào điểm đặc biệt ở sau cái gáy ấy, nhưng nàng không làm sao huy động được ý chí muốn giết người đàn ông này.
Aomame nói: “Cho đến giờ ông đã cưỡng hiếp rất nhiều bé gái. Những bé gái đó mới khoảng trên dưới mười tuổi.”
“Đó là sự thực,” người đàn ông nói. “Xuất phát từ khái niệm thông thường, cô muốn lý giải như vậy thì tôi cũng không có gì phản đối. Dưới con mắt của luật pháp thế tục, tôi là một tên tội phạm, bởi tôi đã thực hiện hành vi giao hợp với các thiếu nữ chưa dậy thì. Ngay cả khi đó không phải là điều bản thân tôi theo đuổi.”
Aomame chỉ biết hít thở mạnh, không biết làm sao để trấn định lại những dòng cảm xúc mạnh mẽ bên trong mình. Gương mặt nàng vặn vẹo, tay trái và tay phải cơ hồ như đang ham muốn hai thứ hoàn toàn khác nhau.
“Mong cô tước đoạt đi tính mạng tôi,” người đang ông nói. “Dù theo nghĩa nào, tôi cũng không nên tiếp tục sống trên đời này nữa. Để duy trì sự cân bằng cho thế giới, tôi là kẻ cần phải bị loại bỏ.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra sau khi tôi giết ông?”
“Người Tí Hon sẽ mất đi người lắng nghe tiếng nói của họ. Bởi vì tôi vẫn chưa có người thừa kế.”
“Nói như vậy thì ai tin được chứ?” Aomame như thể phun những lời ấy qua kẽ môi. “Có thể ông chỉ là một kẻ tính dục biến thái đang cố tìm một cái cớ đường hoàng để biến hành vi nhơ bẩn của mình thành ra chính đáng mà thôi. Thật ra chẳng có Người Tí Hon nào cả, cũng không có cái gọi là tiếng nói của thần, càng không có ân huệ của trời gì hết. Nói không chừng, ông chỉ là một trong những kẻ lừa đảo ti tiện giả mạo nhà tiên tri hay lãnh tụ tôn giáo mà thôi.”
“Đằng kia có một cái đồng hồ,” người đàn ông không ngẩng đầu lên, nói, “Ở trên cái tủ thấp phía bên phải ấy.”
Aomame nhìn sang bên phải, chỗ đó có một cái tủ ngăn kéo mặt trước hơi cong, cao ngang hông người, bên trên đặt một cái đồng hồ lồng khung cẩm thạch, có vẻ tương đối nặng.
“Cô nhìn nó nhé, đừng rời mắt đi chỗ khác.”
Aomame nghe lời ông ta, quay đầu nhìn chăm chú vào cái đồng hồ đó. Nàng cảm thấy dưới đầu ngón tay mình cơ bắp toàn thân người đàn ông căng ra, như thể biến thành đá, bên trong ngập đầy một sức mạnh lớn lao khó bề tưởng tượng. Sau đó, như để đáp lại lời triệu gọi của sức mạnh ấy, cái đồng hồ khẽ bay lên cao khoảng mười xen ti mét, khẽ rung rung như do dự điều gì, rồi đứng yên và lơ lửng trong không trung khoảng mười giây. Sau đó, sức mạnh lại đột nhiên chảy ra khỏi cơ bắp ông ta, cái đồng hồ mới rơi xuống mặt tủ phát ra một tiếng đùng đục, cơ hồ sực nhớ ra rằng trái đất có lực hấp dẫn vậy.
Người đàn ông phải mất một lúc lâu mới thở hắt ra một hơi mệt mỏi.
“Việc nhỏ như thế thôi cũng tốn rất nhiều năng lượng,” ông ta nói sau khi đã thở hết toàn bộ không khí trữ trong cơ thể ra. “Đủ khiến tôi tổn thọ. Có điều, cô đã thấy chưa: ít nhất thì tôi không phải là kẻ lừa đảo ti tiện.”
Aomame không trả lời. Người đàn ông hít thở sâu để hồi phục sức lực. Cái đồng hồ để bàn vẫn nằm trên mặt tủ đếm thời gian, như chưa từng xảy ra chuyện gì, chỉ có vị trí là hơi lệch chéo đi một chút. Aomame vẫn nhìn chằm chằm vào nó trong khi kim giây chuyển động hết một vòng.
“Ông sở hữu một năng lực đặc biệt,” Aomame nói bằng giọng khô khốc.
“Cô thấy rồi đấy.”
“Trong Anh em nhà Karamazov, có câu chuyện giữa con quỷ và chúa Giêsu,” Aomame nói. “Giêsu đang tu khổ hạnh ở miền hoang dã thì con quỷ hiện ra thách thức ngài thực hiện một phép màu… biến tảng đá thành bánh mì. Nhưng Giêsu từ chối. Bởi phép màu chính là sự dụ hoặc của ma quỷ.”
“Tôi biết. Tôi cũng đọc Anh em nhà Karamazov rồi. Đúng thế. Đúng như cô nói, những trò màu mè này chẳng giải quyết được vấn đề gì. Nhưng tôi cần thuyết phục được cô trong thời gian hữu hạn của chúng ta, vậy nên tôi mới làm cho cô xem.”
Aomame trầm mặc.
“Thế giới này không có cái thiện tuyệt đối, cũng không có cái ác tuyệt đối,” người đàn ông nói. “Thiện ác không phải là thứ bất biến, chúng không ngừng đổi chỗ cho nhau. Thiện chỉ sau một cái nháy mắt có thể chuyển hoán thành ác và ngược lại. Thế giới mà Dostoevsky miêu tả trong Anh em nhà Karamazov chính là như vậy. Quan trọng là, cần phải duy trì cân bằng giữa cái thiện và cái ác cứ chuyển hóa không ngừng ấy. Chỉ cần nghiêng về một phía quá mức là sẽ khó lòng duy trì được đạo đức trong hiện thực. Đúng vậy, bản thân sự cân bằng đã là thiện. Chính vì ý nghĩa này, để giữ gìn sự cân bằng, tôi cần phải chết.”
“Lúc này tôi không cảm thấy cần thiết phải giết ông nữa,” Aomame dứt khoát nói, “Có lẽ ông đã biết rồi, tôi đến đây là để giết ông. Tôi không thể cho phép hạng người như ông tiếp tục tồn tại. Tôi đã quyết tâm xóa sổ ông khỏi thế giới này. Nhưng giờ tôi không định làm như thế nữa. Ông đang phải chịu nỗi đau đớn khác thường, tôi có thể hiểu điều ấy. Ông đáng phải bị đau đớn giày vò, chết dần chết mòn từng chút một. Tôi không muốn ban cho ông một cái chết bình yên.”
Người đàn ông úp mặt xuống, khẽ gật đầu, nói: “Nếu cô giết tôi, người của tôi chắc chắc sẽ truy đuổi cô tới cùng. Bọn họ là một đám tín đồ điên loạn, họ rất mạnh và rất ngoan cố. Không có tôi, có lẽ giáo đoàn sẽ mất đi lực hướng tâm kìm giữ nó. Nhưng một khi đã hình thành, hệ thống sẽ sở hữu sinh mạng riêng của nó.”
Aomame nghe người đàn ông nói trong khi nằm sấp.
“Tôi đã làm chuyện xấu xa với bạn của cô,” người đàn ông nói.
“Bạn của tôi?”
“Chính là cô bạn đeo còng tay ấy. Cô ta tên là gì nhỉ?”
Một sự tĩnh lặng thình lình phủ xuống bên trong Aomame. Trong nội tâm nàng không còn tranh chấp gì nữa, chỉ bao trùm im lặng nặng nề.
“Nanako Ayumi,” Aomame đáp.
“Thật bất hạnh.”
“Ông làm phải không?” Aomame lạnh lùng hỏi. “Ông đã giết Ayumi phải không?”
“Không, không phải, không phải tôi giết.”
“Nhưng ông biết điều gì đó. Ayumi bị kẻ nào giết hại?”
“Điều tra viên của chúng tôi phát hiện ra chuyện này,” người đàn ông nói. “Chúng tôi không biết ai giết cô ấy. Tất cả những gì chúng tôi điều tra được chỉ là người bạn nữ cảnh sát của cô bị ai đó thắt cổ đến chết trong một khách sạn.”
Tay phải Aomame nắm chặt lại lần nữa. “Nhưng ông vừa nói ‘tôi đã làm chuyện xấu xa với bạn cô’.”
“Ý tôi là tôi không thể ngăn cản chuyện này. Dù kẻ nào giết chết cô ấy đi chăng nữa, thì trong mọi trường hợp, bộ phận yếu nhất của sự vật là thứ bị tấn công trước tiên. Giống như lũ sói luôn chọn con cừu yếu nhất trong đàn làm mục tiêu vậy.”
“Ý ông là, Ayumi là điểm yếu nhất của tôi?”
Người đàn ông không trả lời.
Aomame nhắm mắt lại. “Nhưng tại sao họ phải giết cô ấy? Cô ấy là người rất tốt, không bao giờ làm hại bất cứ ai! Tại sao? Là vì tôi có dính dáng đến chuyện này ư? Vậy chẳng phải chỉ cần hủy diệt một mình tôi là đủ rồi hay sao?”
Người đàn ông đáp: “Họ không thể hủy diệt được cô.”
“Tại sao?” Aomame hỏi. “Tại sao họ không thể hủy diệt được tôi?”
“Bởi vì cô đã trở thành một thực thể đặc biệt.”
“Thực thể đặc biệt,” Aomame nói. “Đặc biệt như thế nào?”
“Sau này cô sẽ nhận ra.”
“Sau này?”
“Khi thời cơ đến.”
Aomame lại vặn vẹo mặt. “Tôi không hiểu ông nói gì.”
“Đến lúc ấy cô sẽ hiểu.”
Aomame lắc đầu. “Nói tóm lại, hiện giờ họ không thể tấn công tôi, vì vậy mới tấn công những điểm yếu ở quanh tôi. Họ làm vậy là để cảnh cáo tôi, không cho tôi tước đoạt tính mạng ông.”
Người đàn ông im lặng không nói gì. Đó là sự im lặng mang tính khẳng định.
“Thật quá đáng.” Aomame nói, rồi lắc đầu. “Cho dù họ giết chết cô ấy nhưng rõ ràng thực tại cũng chẳng thay đổi gì.”
“Không, bọn họ không phải kẻ giết người. Họ không bao giờ đích thân ra tay hủy diệt ai đó. Thứ giết chết bạn cô hẳn nhiên là thứ gì đó ẩn sâu bên trong cô ấy. Hoặc sớm hoặc muộn, bi kịch tương tự rốt cuộc cũng xảy ra. Cuộc đời cô ấy đầy rẫy hiểm nguy. Chẳng qua họ chỉ kích thích chúng lên thôi. Giống như thay đổi thời gian trong thiết bị hẹn giờ ấy.”
“Thời gian trong thiết bị hẹn giờ?”
“Cô ấy không phải là cái lò nướng chạy điện! Cô ấy là người sống sờ sờ ra đó! Cuộc đời cô ấy đầy rẫy hiểm nguy thì sao chứ? Cô ấy là bạn quý của tôi. Vậy mà các người lại cướp cô ấy đi đơn giản như không. Một cách vô nghĩa. Một cách tàn khốc.”
“Sự phẫn nộ của cô là hợp tình hợp lý,” người đàn ông nói. “Cô cứ trút hết vào tôi là được.”
Aomame lắc đầu. “Tôi có lấy mạng ông ngay tại đây, Ayumi cũng không thể nào sống lại được.”
“Nhưng làm vậy ít nhất cũng là một hành vi đáp trả lại Người Tí Hon. Cô có thể trả thù họ. Hiện giờ, bọn họ chưa muốn tôi chết. Nếu tôi chết bây giờ thì tất sẽ nảy sinh khoảng trống, ít nhất là khoảng trống tạm thời, cho tới khi kẻ kế thừa tôi xuất hiện. Điều này đối với họ là một đòn nặng nề, đồng thời cũng có lợi cho cô nữa.”
Aomame nói: “Có người từng nói, không có gì đắt giá và vô ích hơn trả thù.”
“Winston Churchill. Chỉ là, theo trí nhớ của tôi, ông ta nói vậy chỉ để biện hộ cho ngân sách thiếu thốn của Đế quốc Anh mà thôi. Chẳng có ý nghĩa đạo đức gì ở đây cả.”
“Tôi không quan tâm đến đạo đức. Ông sẽ bị thứ kỳ lạ gì đó đục rỗng thân thể và chết trong đau đớn giày vò cho dù tôi có ra tay với ông hay không. Tôi không có lý do gì để thông cảm với ông về chuyện đó. Ngay cả khi đạo đức của thế giới này suy đồi và sụp đổ thành từng mảnh, thì cũng sẽ không ai có thể trách tôi được.”
Người đàn ông lại thở dài một tiếng, “Đúng thế. Tôi hoàn toàn hiểu ý cô. Thế này được không? Chúng ta giao ước với nhau vậy. Nếu giờ cô giết tôi, để đáp lại, tôi sẽ cứu mạng Kawana Tengo một lần. Tôi vẫn còn đủ sức mạnh để làm việc đó.”
“Tengo,” Aomame nói, sức lực trên người nàng đột nhiên biến mất, “Cả chuyện đó ông cũng biết.”
“Tôi biết mọi chuyện liên quan đến cô. Tôi đã nói với cô rồi… ý tôi là, tôi biết gần như mọi chuyện.”
“Nhưng ông không thể nào nhìn thấu được đến cả chuyện này nữa. Tên của Tengo xưa nay chưa bao giờ bước ra khỏi tim tôi, dù chỉ một bước.”
“Cô Aomame,” người đàn ông nói, sau đó phát ra một tiếng thở dài, “Trên thế giới này không có sự vật nào chưa từng bước ra khỏi trái tim dù chỉ một bước đâu. Vả lại, trước mắt, Kawana Tengo… có lẽ nên nói là do ngẫu nhiên… đã trở thành một nhân vật có ý nghĩa không nhỏ đối với chúng tôi.”
Aomame không biết đáp lại thế nào.
Người đàn ông nói: “Nhưng nói chính xác ra, đây không phải là ngẫu nhiên đơn thuần. Vận mệnh của hai người không phải tự nhiên mà gặp gỡ ở đây. Cô và anh ta đã được định sẵn là bước chân vào thế giới này. Khi đã bước vào rồi, dù có thích hay không, mỗi người cũng sẽ được giao sứ mệnh của riêng mình.”
“Bước vào thế giới này.”
“Đúng, năm 1Q84 này.”
“Năm 1Q84?” Aomame nói, gương mặt nàng vặn vẹo dữ dội lần nữa. Đó là từ mình nghĩ ra mà.
“Hoàn toàn chính xác. Là từ do cô nghĩ ra,” Người đàn ông dường như đọc được suy nghĩ của nàng, lại nói tiếp: “Tôi chỉ mượn dùng thôi.”
Năm 1Q84. Cặp môi Aomame hơi vểnh lên tạo thành khẩu hình phát ra từ đó.
“Trên thế giới này không có sự vật nào chưa từng bước ra khỏi trái tim dù chỉ một bước đâu,” Lãnh Tụ lặp lại bằng giọng bình thản.